CƠN MÊ THẾ KỶ THẢM SÁT MẬU THÂN HUẾ 1968?

 CƠN MÊ THẾ KỶ THẢM SÁT MẬU THÂN HUẾ 1968?          


Inline image



       Tên đồ tể HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG















Ai còn nhớ CƠN MÊ thế kỷ  THẢM SÁT MẬU THÂN HUẾ 1968?
  - Nhà Huyết học NGUYỄN ĐẮC XUÂN vẫn khẳng định : 
         "Mậu Thân vẫn là một ‘chiến thắng lịch sử’"
 
    HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG vừa qua đời...

Nhà báo Mạnh Kim bình luận:  Tôi không chỉ trích sự chọn lựa quá khứ. Tôi chỉ thắc mắc sự chọn lựa hiện tại và cách nhìn hiện tại khi nhắc lại quá khứ. Hàng chục năm qua, các ông vẫn chỉ gỡ tội cho cá nhân mình chứ không phải giải oan cho hàng ngàn nạn nhân, tiếp tục nhất mực rằng những ‘mất mát’ đó là ‘ngoài ý muốn’ và Mậu Thân vẫn là một ‘chiến thắng lịch sử’ – như lời lặp đi lặp lại của NGUYỄN ĐẮC XUÂN ."
-------------------



-“Đồ tể khát máu!” Ông Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa qua đời ở tuổi 86, mang theo nhiều ‘bí mật’ về cuộc tàn sát, chôn sống hàng ngàn người dân, trong trận Mậu Thân ở Huế!

-Hoàng Phủ Ngọc Tường từ trần ở tuổi 86, hôm 24/7 ở thành phố TP.HCM, báo chí Việt Nam cho biết, dẫn thông tin từ bà Hoàng Dạ Thư, con gái cả của ông Tường.

Các báo, bao gồm cả VNExpress, Thanh Niên, Tuổi Trẻ…, viết rằng ông Tường, lâu nay được ca ngợi ở Việt Nam là nhà văn tài hoa và thành công, đã “ra đi tự nhiên, thanh thản”, theo lời kể của bà Thư. Chỉ mới hơn 2 tuần trước, vợ ông, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, đã tạ thế, hưởng thọ 74 tuổi.

Bà Thư và một đại diện của Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên-Huế cho báo chí trong nước biết rằng, hài cốt của hai vợ chồng nhà văn, nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường và Lâm Thị Mỹ Dạ, sẽ được đưa về Huế vào ngày 30/7. Huế là nơi sinh của ông Tường, trong khi quê gốc của ông là Quảng Trị.

Vào tối 30/7, giới văn nghệ sĩ sẽ tổ chức đêm thơ để tưởng nhớ hai ông bà. Vợ chồng ông Tường sẽ được an táng tại một nghĩa trang thuộc phường Hương Hồ, thành phố Huế, cách sông Hương khoảng 2 kilomet, gần đồi Vọng Cảnh, tin cho hay.

Điểm lại cuộc đời ông Tường, báo chí Việt Nam viết rằng ông đã “hăng say tham gia hoạt động văn hóa, văn nghệ trong kháng chiến chống Mỹ Ngụy! cứu nước!”, từng giữ các chức vụ Tổng thư ký Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên-Huế, Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Cửa Việt.

Giới văn chương trong nước ghi nhận rằng ông Tường là nhà văn thành công với thể loại bút ký và có những đồng nghiệp đánh giá rằng ông một trong số rất ít nhà văn viết bút ký nổi tiếng Việt Nam trong vài chục năm, theo các bài báo trong nước viết về ông sau khi ông qua đời. Năm 2007, ông được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

VNExpress dẫn lời nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, một người bạn của ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, nói rằng ông Tường là “một nhà văn hóa hành văn vô cùng độc đáo” và cũng là “một cuốn từ điển sống về Huế trong cuộc chiến”.

Dưới góc nhìn của ông Tạo, khi đọc văn của ông Tường, “người ta không chỉ thâu nhận đời sống, lịch sử, triết học, kinh tế, hay chính trị mà còn cảm nhận được cả một tình yêu lớn đối với con người, dân tộc và nồng cháy máu cách mạng".

Nhiều trang mạng xã hội ở Việt Nam, trong đó có NXB Trẻ, VTV24, Đài Phát Thanh, Chuyện Của Hà Nội, Hà Nội Của Tôi, Thả Mình Vào Văn Học, Học Văn Cô Sương Mai, Theanh28 Entertainment, Weibo Việt Nam…, cũng lên tiếng “chia buồn” về việc ông Tường đã trút hơi thở cuối cùng. Các bài đăng đó nhận được hàng chục nghìn phản ứng “yêu”, “thích”, “thù hận”, “quan tâm”.

Tuy nhiên, theo quan sát của VOA, cũng xuất hiện ý kiến của một số người và trang mạng xã hội như datviet.com, Hữu Vinh Ba Sàm, JB Nguyễn Hữu Vinh, Lâm Bình Duy Nhiên…, cho rằng cái chết của ông Hoàng Phủ Ngọc Tường đồng nghĩa là có những “sự thật” về “vụ thảm sát kinh hoàng” ở Huế vào Tết Mậu Thân 1968 “mãi mãi ra đi” theo ông vào lịch sử!

Nói với báo chí Việt Nam trong những dịp khác nhau, ông Tường cho rằng mình bị “vu oan” là “đồ tể khát máu!” khi các lực lượng cộng sản đánh vào Huế hồi Tết Mậu Thân 1968, thực hiện chuyện này, mà ông thì bị tai tiếng, như là một “bi kịch cuộc đời” đeo bám ông trong hàng chục năm trời.

Đầu tháng 2/2018, trùng dịp kỷ niệm 50 năm trận Mậu Thân, ông Tường, khi đó 81 tuổi, công bố một thư ngỏ bày tỏ rằng ông sắp “về trời” và “có một điều nếu không nói ra tôi sẽ không yên tâm nhắm mắt”, đó là câu chuyện Mậu thân 1968. Các trích đoạn thư của ông được nhiều cơ quan báo chí của Việt Nam và nước ngoài đăng lại, trong đó có VOA, BBC…còn báo chí trong nước thì không được phép đăng!

Trong thư, ông cải chính rằng, nhưng chẳng ai tin! “Mậu Thân 1968 tôi không về Huế!” nhưng nói thêm rằng ông đã mắc “sai lầm” khi trả lời phỏng vấn cho đoàn làm phim "Việt Nam một thiên lịch sử truyền hình” hồi năm 1981, với tư cách một nhân chứng thật Mậu Thân Huế 1968, trong khi ông nói ông “là kẻ ngoài cuộc!”.

“Để chứng tỏ mình là người trong cuộc, tôi đã dùng ngôi thứ nhất ‘tôi’, ‘chúng tôi’ khi kể một vài chuyện tàn sát ở Huế Mậu Thân 68”, theo một trích đoạn từ thư ngỏ.

Ông Tường khẳng định rằng các chi tiết ông đưa ra trong cuộc phỏng vấn “không sai”, nhưng cái sai là ở chỗ những người chứng kiến các chi tiết đó, không phải là ông Tường và ông chỉ “nghe những người bạn kể lại”. “Ở đây tôi là kẻ mạo nhận, một việc rất đáng xấu hổ”, ông viết trong thư ngỏ.

Một sai lầm khác, theo lời ông Tường, là việc “khi nói về thảm sát Huế, tôi đã hăng hái bảo vệ cách mạng, đổ hết tội cho Mỹ!”.

Ông lý giải về động cơ này của mình: “Đó là năm 1981, khi còn hăng say theo cách mạng, tôi đã nghĩ đúng như vậy”. Tuy nhiên, chỉ vài năm sau, ông Tường đã nhận ra lối tư duy và phát ngôn đó là “sai lầm”. Ông viết: “Đó là sự nguỵ biện. Không thể lấy tội ác của Mỹ để che đậy những sai lầm đã xảy ra ở Mậu thân 1968".

Cuối bức thư ngỏ, ông Tường kết luận rằng “Từ hai sai lầm nói trên tôi đã tự rước họa cho mình, tự tôi đã đánh mất niềm tin yêu của nhiều người dân Huế đối với tôi, tạo điều kiện cho nhiều kẻ chống cộng cực đoan, vu khống và quy kết tôi như một tội phạm tàn ác chiến tranh!” và ông bày tỏ “Tôi xin thành thật nhìn nhận về hai sai lầm nói trên, xin ngàn lần xin lỗi”.

Trong những lời chia buồn, bình luận về việc ông Hoàng Phủ Ngọc Tường qua đời, không ít người cho rằng dù ông ra đi vĩnh viễn, sẽ vẫn luôn có những đánh giá ngược chiều nhau về ông, nhưng cũng có thể là một số điều gắn với quá khứ của ông “đồ tể Tết Mậu Thân” sẽ đi vào quên lãng.

Đó là điều ông ước được quên thôi, còn thân nhân các nạn nhân sẽ không bao giờ quên! CS mà, “mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời CS mà thương đân mình!” và “giặc từ miền Bắc vô đây, bàn tay vấy máu đồng bào!” Tội ác nào, mà CS không làm!

Dù Qua Hơn Nửa Thế Kỷ, Nhưng Không Bao Giờ Quên! Một Trong Những Cuộc Trả Thù Đẫm Máu, CS Tàn Sát, Chôn Sống Kinh Hoàng Nhất Trong Cuộc Chiến!
Inline image

Bối Cảnh Tết Mậu Thân Tại Huế

*Theo tác giả Matthew White ghi lại trong cuốn sách "Tàn khốc! Bi thảm: tàn sát tại Huế, là một trong hàng 100 sự kiện tử vong cực cao, trong lịch sử nhân loại!" thì vụ thảm sát ở Huế năm 1968 được ông trích dẫn từ các nguồn khác nhau, cho rằng đã có 4.800 người chết và 3.000 người mất tích! Thật ra mỗi bên, Cộng sản hay Quốc gia đều đưa ra con số khác nhau, nhưng chia đều con số, thì khoảng từ 5 đến 6 ngàn người tử vong, trong cuộc tàn sát đẫm máu này!
Inline image

-Sáng sớm ngày 31 tháng 1 năm 1968, trong dịp Tết Nguyên Đán, Quân đội Cộng Sản Nhân dân Việt Nam hợp với Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, cùng lúc tấn công bất thình lình tại nhiều thành phố và địa phương trên miền Nam Việt Nam, trong đó có Sài Gòn và Huế. Sau các thành công quân sự ban đầu, họ bị đối phương áp đảo và đẩy lui khắp nơi, trừ Huế. Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân tuy được xem là một thất bại chiến thuật, nhưng lại là một chiến thắng có tầm vóc lớn về chiến lược.

Với mục đích giành giật chủ quyền tại Huế, trận chiến 28 ngày giữa Quân CS và Giải phóng miền Nam Việt Nam với Quân đội Hoa Kỳ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đã diễn ra và kết quả là 40% thành phố bị phá hủy, 116.000 người mất nhà ở. Quân đội Hoa Kỳ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa chịu khoảng 4.400 lính thương vong, trong khi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân đội CS Nhân dân Việt Nam cũng tổn thất trên 4.000 quân. Cũng trong cuộc tái chiếm này, quân đội Mỹ đã sử dụng tối đa vũ khí hạng nặng như bom napalm, đại bác, pháo xe tăng và súng không giật cỡ lớn. Trong số 17.134 ngôi nhà tại Huế, 9.776 ngôi nhà bị phá hủy hoàn toàn, 3.169 bị hư hỏng nặng; số thường dân thiệt mạng theo ước tính đầu tiên của chính phủ Việt Nam Cộng hòa là 3.776 người. Tài liệu Quân CS Giải phóng miền Nam Việt Nam cho biết họ đã chôn cất khoảng 4.000 nạn nhân do bom đạn tại các khu mộ tập thể cùng với binh sĩ tử trận của chính họ!

Số liệu kinh hoàng về các hố chôn tập thể!
Inline image
Inline image

Trong những tháng và những năm tiếp theo sau Trận Mậu Thân tại Huế, bắt đầu từ ngày 31 tháng 1 năm 1968, và kéo dài tổng cộng 26 ngày, hàng vài chục ngôi mộ tập thể được phát hiện trong và xung quanh Huế. Nạn nhân bao gồm, thanh niên, phụ nữ, nam giới, trẻ em và… trẻ sơ sinh.
Inline image

Theo Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân biểu VNCH khu vực Thừa Thiên, trong 22 địa điểm tìm được các mồ chôn tập thể, người ta đếm được 2.326 sọ người. Sau tết, các gia đình kê khai có người chết hoặc mất tích là trên 4.000 gia đình. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thì đưa ra danh sách 4.062 nạn nhân được họ xác định là đã bị mất tích, bắt cóc hoặc bị giết! Theo các báo cáo của Việt Nam Cộng Hòa, nhiều thi thể được tìm thấy ở tư thế bị trói buộc bằng dây thép gai, bị đánh đập tra tấn và đôi khi bị đập vỡ sọ trước khi chôn sống.

Võ Văn Bằng, quan chức VNCH, Trưởng ban Cải táng nói với đài Á Châu Tự Do (RFA) năm 2008: "Các hố cách nhau. Mỗi hố vào khoảng từ 20 người, đến hàng trăm người. Trong các hố, người thì đứng, người thì nằm, người thì ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã mát. Trên thi hài còn thấy những dây lạt trói lại, dây điện thoại, thép gai nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng, bửa vào…"

Theo báo cáo tổng kết của Douglas Pike, lúc bấy giờ là nhân viên Cục Tâm lý chiến của cơ quan thông tin Hoa Kỳ, năm 1970:
Inline image

"Câu chuyện (về Huế) chưa chấm dứt. Nếu ước đoán của giới chức Huế được coi như gần đúng là khoảng từ 5 ngàn đến 6 ngàn người bị chôn sống trong các hố chôn tập thể, chưa kể khoảng 2.000 người vẫn còn mất tích. Tổng kết về người chết và mất tích như sau:

•        Tổng số dân sự tử vong: 7.600 - chết lẫn mất tích

•        Chiến trường: - 1.900 bị thương vì chiến cuộc; 944 thường dân chết vì chiến cuộc

•        Nạn nhân trong những ngôi mộ tập thể:

1.173 - số tử thi tìm trong đợt đầu sau cuộc chiến, 1968

809 - số tử thi tìm trong đợt nhì, kể cả tìm thấy ở đụn cát, tháng 3-7 năm 1969

428 - số tử thi tìm trong đợt thứ ba, trong khe Đá Mài (khu Nam Hoa) - tháng 9 năm 1969

300 - số tử thi tìm trong đợt thứ tư, khu Phu Thu, tháng 11 năm 1969

100 - số tử thi tìm thấy các nơi trong năm 1969

1.946 - mất tích (tính đến năm 1970)"

Theo soạn giả Matthew White ghi lại trong cuốn sách "Tàn khốc: 100 sự kiện tử vong cực cao trong lịch sử nhân loại" thì vụ thảm sát ở Huế năm 1968 được ông trích dẫn từ các nguồn khác nhau cho rằng đã có 4.800 người chết và 3.000 người mất tích.

Mark Woodruff ghi rằng một bản báo cáo của Mặt trận CS Dân tộc Giải phóng bắt được ngày 25 tháng 4 năm 1968 ghi đã "loại khỏi vòng chiến đấu 1.892 nhân viên hành chánh, 58 cảnh sát, 790 tên ác ôn, sáu đại uý, 1 trung uý, 40 thiếu uý và nhiều sĩ quan trừ bị…" trong trận đánh ở Huế, tuy nhiên "loại khỏi vòng chiến đấu" là một khái niệm khá rộng (từ chết, chôn sống, bị thương, đầu hàng cho tới bắt làm tù binh).
Inline image

Dã Man Hơn Loài Cầm Thú! Không Giết Mà Chôn Sống Hàng Ngàn Người Dân! Tội Đồ Hoàng Phủ Ngọc Tường ở Huế Tết Mậu Thân!

(Bùi Vân Phú),

-Cộng sản cố chối, không bao giờ thừa nhận tội ác tại Huế vào Tết Mậu Thân 1968

Qua những tài liệu, có thể suy ra rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường có mặt ở Huế trong khoảng thời gian từ tuần đầu đến giữa tháng 2/1968.
Inline image

Hoàng Phủ Ngọc Tường, sau khi trả lời truyền hình Mỹ là ông có mặt ở Huế vào Tết Mậu Thân, đến năm 1997 ông lại phủ nhận chuyện đó khi trả lời phóng viên Thụy Khuê của đài RFI. Bài phỏng vấn được in lại trong sách “Giải khăn sô cho Huế” có câu hỏi liên quan đến sự kiện đó như sau:

Thụy Khuê: Như vậy thì anh đã làm gì trong thời gian Tết Mậu Thân? Anh ở đâu? Anh làm những chức vụ gì?

Hoàng Phủ Ngọc Tường: Có một tổ chức chính trị của các lực lượng đấu tranh của phong trào Huế ra đời trong bối cảnh xuân Mậu Thân, ấy là Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình Thành Phố Huế, do anh Lê Văn Hảo làm Chủ tịch, Hòa Thượng Thích Đôn Hậu và bà Nguyễn Đình Chi làm Phó chủ tịch. Với tư cách Tổng thư ký, tôi luôn luôn có mặt bên cạnh các vị kể trên để làm công tác chính trị của Liên Minh, tuyệt nhiên không dính líu gì đến chuyện nhúng tay vào máu ở Huế. Trụ sở chiến dịch của Liên Minh là một địa đạo Trường Sơn, thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, Huế. Trụ sở này, đã được mô tả đầy đủ trên báo Lao Động, ở trong nước cách đây hai tháng.

Tập sách Huế Xuân 68 (Nhà xuất bản Thành ủy Huế. 1988) là nguồn tài liệu qua nhiều bài bút ký chiến tranh ở Huế Tết Mậu Thân của những người đã trực tiếp tổ chức và tham gia vào cuộc tổng tấn công như Thượng tướng Trần Văn Quang, Thiếu tướng Lê Chưởng, Lê Minh, Ngô Kha, Nguyễn Đắc Xuân, Lê Văn Hảo, Nguyễn Đình Chi, Lê Thị Mai…

Sách do Nguyễn Huy Ngọc chịu trách nhiệm xuất bản và ban biên tập gồm Hoàng Phủ Ngọc Tường, Tô Nhuận Vỹ, và Nguyễn Đắc Xuân.

Bài “Bước ngoặt vào xuân” của Lê Cảnh Trân là sĩ quan bí thư của tỉnh trưởng Thừa Thiên Huế Phan Văn Khoa và là một cán bộ nằm vùng, có đoạn viết:

“Theo các nguồn tin từ xa qua đài Tiếng nói Việt Nam, đài Phát thanh Giải phóng…. Bao nhiêu gương mặt quen thuộc, thân yêu cũng đã đến với tôi: Thượng tọa Thích Đôn Hậu trụ trì chùa Thiên Mụ, giáo sư Hoàng Phủ Ngọc Tường từng giảng văn học cho tôi, giáo sư Lê Văn Hảo, bà Tùng Chi, rồi Nguyễn Đắc Xuân người bạn trong phong trào trước đây, rồi Đoan Trinh, con gái cụ Nguyễn Đoá, từng là đoàn sinh gia đình Phạt tử của tôi. Nhiều, nhiều người lắm… cùng xuất hiện trên một trận tuyến giải phóng thành phố Huế.” (tr. 332)

Giáo sư Lê Văn Hảo qua bài “Bước ngoặt của đời tôi” ghi lại sự kiện ông rời thành lên núi, tức vào chiến khu, từ hôm 25 tháng Chạp, đi theo một cô giao liên tên Gái dẫn đường. Tối 29 tháng Chạp ông gặp Hoàng Phủ Ngọc Tường, cùng với Hoàng Phương Thảo và Nguyễn Đức Hân. Sáng 30 Tết ông tham khảo với Tường để sửa chữa lời kêu gọi của ủy ban liên minh các tổ chức để trưa hôm đó ghi âm. Ông và Thảo, Hân cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường theo dự kiến sẽ xuống núi sau vài ngày.

Sau khi tổng tấn công nổ ra ông Hảo ghi lại như sau:

“Đến ngày 15 tháng 2 thì Ủy ban Nhân dân Cách mạng Thừa Thiên Huế ra mắt đồng bào cố đô. Tôi được cử làm chủ tịch, anh Hoàng Phương Thảo, chị Nguyễn Đình Chi làm phó chủ tịch. Cũng trong những ngày Huế giải phóng, trên đường phố tại nhiều địa điểm có loa phóng thanh đã vang lên Lời Kêu gọi của Ủy ban Liên Minh các lực lượng Dân tộc Dân chủ và Hoà bình Việt Nam…” (tr. 242)

Sự kiện Lê Văn Hảo đã có mặt ở Huế ngày 15-2-1968 và theo lời Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời Thụy Khuê là ông “luôn luôn có mặt bên cạnh các vị kể trên” thì điều đó chứng minh ông Tường đã xuống núi cùng với giáo sư Lê Văn Hảo và Hoàng Phương Thảo và lúc đó cũng đang có mặt ở Huế cùng với Hoà thượng Thích Đôn Hậu và bà Nguyễn Đình Chi là những người đứng đầu Liên minh.

Cũng theo bài viết của Lê Văn Hảo, khoảng nửa tháng sau khi Huế được giải phóng, nhiều người rời thành phố ra vùng giải phóng tham gia cách mạng có Hòa thượng Thích Đôn Hậu, Nguyễn Đình Chi (tên thật là Đào Thị Xuân Yến), Nguyễn Đoá, Tôn Thất Dương Tiềm. (tr. 244)

Bà Nguyễn Đình Chi trong bút ký “Thoát Ly” kể rằng ngày 9-2-1968, lúc bà còn ở Huế, thì Hoàng Phương Thảo đã gặp bà để bàn về việc gia nhập Liên minh và ủy ban nhân dân cách mạng và bà đã đồng ý.

Sau đó bà thoát ly lên núi, vào một nơi dành cho các vị trong ủy ban nhân dân và liên minh thì “gặp ngay những nhân sĩ trí thức Huế đã lên trước tôi chẳng hạn như bác Nguyễn Đoá, anh Tôn Thất Dương Tiềm, anh Lê Văn Hảo, anh Thành, anh Hoàng Lê (tức Hoàng Phương Thảo”. Hôm đó là ngày 18-2-1968.

Khoảng cuối tháng 2, đầu tháng 3 ở chiến khu bà Chi bị sốt rét và có Lê Văn Hảo cùng Thuyết, bí danh của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ghé thăm. Đó là lời bà Chi kể lại trong bút ký.

Qua những tài liệu trên, có thể suy ra rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường có mặt ở Huế trong khoảng thời gian từ tuần đầu đến giữa tháng 2/1968. Vì sau đợt tấn công đầu tiên chiếm được Huế, bộ đội cộng sản không giữ được và quần chúng không nổi dậy, cũng như tại nhiều tỉnh thành khác lúc bấy giờ, nên bộ chỉ huy bắt đầu tính đến kế hoạch rút lui sau các đợt phản kích bắt đầu một tuần sau đó của lính Việt Nam Cộng hòa và Mỹ. Sau 26 ngày chiếm Huế thì bộ đội cộng sản hoàn toàn rút khỏi.

Trong giao tranh nhiều người bị tử thương vì bom đạn hai bên. Chết vì bị tấn công nhầm, vì bom lửa như đã được ghi lại trong nhiều sách, tài liệu.

Nhưng còn hàng nghìn cái chết của những người đã ra đầu hàng, những người bị đập vỡ sọ, bị trói tay thành từng nhóm, bị nhét giẻ vào miệng trước khi bị đẩy xuống hố, xuống mương chôn sống. Đó là thảm sát.

Theo tài liệu lưu hành nội bộ có tên “Chiến trường Trị-Thiên-Huế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng” [dự thảo] (Nxb Thuận Hóa, Huế. 1985), khuyết điểm trong các giai đoạn đấu tranh trước tổng tiến công Mậu Thân, từ 1959 đến cuối năm 1967, là cán bộ “chưa quán triệt sâu sắc quan điểm bạo lực cách mạng và tư tưởng chiến lược tấn công”.

Và bạo lực đã xảy ra cho Huế: “Khí thế cách mạng sôi nổi rầm rộ nhất là khu Gia Hội. Tại đây nhân dân đã bắt và trừng trị nhiều tên phản động, ác ôn, mật vụ từ các nơi trong thành phố chạy trốn tụ tập về; hằng trăm tên lính ngụy ra đầu hàng, đầu thú với cách mạng”.

Với chủ trương dùng bạo lực cách mạng mà những bộ đội và cán bộ cộng sản đã quán triệt thì dù có hay không những Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đóa, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Huế cũng không tránh khỏi thảm sát như đã xảy ra.

Một lần tôi đến Huế, đi ăn cơm Âm Phủ và nghe một bạn trẻ nói rằng Huế mỗi khi Tết về rất là buồn. Tôi hiểu được nỗi buồn đó của Huế. Người dân Huế từ bao năm qua vẫn mong có một ngày giỗ chung để cho hương hồn những người chết oan nghiệt của năm Mậu Thân được giải thoát.

Hoàng Phủ Ngọc Tường chết, gợi lại cho công luận, người Việt Nam trong và ngoài nước, nhắc đến hình ảnh tội ác CS dã man, kinh tởm, cuộc thảm sát và chôn sống kinh hoàng Mậu Thân, Huế!

-Hoàng Phủ Ngọc Tường chết hôm 25/7/2023, trong lúc ông này bị coi là tội đồ trong vụ thảm sát Mậu Thân 1968.

“Mậu Thân 1968 tôi không về Huế… Tôi xin thành thật nhìn nhận về hai sai lầm, xin ngàn lần xin lỗi. Tôi đã tự rước họa cho mình, tự tôi đã đánh mất niềm tin yêu của nhiều người dân Huế đối với tôi, tạo điều kiện cho nhiều kẻ chống cộng cực đoan vu khống và quy kết tôi như một tội phạm chiến tranh.”

Đó là lời của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường trong một lá thư “giãi bày” mang tên “Lời cuối cho câu chuyện quá buồn” được đăng tải trên Facebook Nguyễn Quang Lập hôm 10 Tháng Hai, 2018.

Từ nhiều năm nay, ông Tường bị chỉ trích vì ông đã trả lời phỏng vấn của đài truyền hình WGBH hồi năm 1981 cho loạt phóng sự về cuộc chiến Việt Nam với tư cách “nhân chứng Mậu Thân.”

Trong lá thư nêu trên, ông Tường xác nhận “clip tung lên mạng là bản gốc cuộc phỏng vấn,” đồng thời thú nhận: “Sai lầm của tôi là nhận lời ông Burchett và đoàn làm phim ‘Việt Nam một thiên lịch sử truyền hình’ trả lời phỏng vấn với tư cách một nhân chứng Mậu Thân Huế 1968, trong khi tôi là kẻ ngoài cuộc.”

Cuộc thảm sát Mậu Thân là nỗi ám ảnh kinh khiếp, khôn nguôi của dân Huế

Bức thư viết tiếp: “Để chứng tỏ mình là người trong cuộc, tôi đã dùng ngôi thứ nhất – ‘tôi,’ ‘chúng tôi’ khi kể một vài chuyện ở Huế mậu thân 68. Đó là những chuyện anh em tham gia chiến dịch kể lại cho tôi, tôi đã vơ vào làm như là chuyện do tôi chứng kiến. Đặc biệt, khi kể chuyện máy bay Mỹ đã thảm sát bệnh viện nhỏ ở Đông Ba chết 200 người, tôi đã nói: ‘Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu… Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra…’ Chi tiết đó không sai, sai ở chỗ người chứng kiến chi tiết đó không phải là tôi, mà là tôi nghe những người bạn kể lại. Ở đây tôi là kẻ mạo nhận, một việc rất đáng xấu hổ, từ bé đến giờ chưa bao giờ xảy ra đối với tôi.”

Ông Tường cũng viết thêm: “Trong cuộc trả lời phỏng vấn này, khi nói về thảm sát Huế, tôi đã hăng hái bảo vệ cách mạng, đổ tội cho Mỹ. Đó là năm 1981, khi còn hăng say cách mạng, tôi đã nghĩ đúng như vậy. Chỉ vài năm sau, tôi đã nhận ra sai lầm của mình. Đó là sự ngụy biện. Không thể lấy tội ác của Mỹ để che đậy những sai lầm đã xảy ra ở Mậu Thân 1968.”

Có thể hiểu phát ngôn của ông Tường là cách ông phủ nhận việc mình đã có mặt ở Huế trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân và bác cáo buộc ông “can dự vào các vụ thảm sát ở Huế thời điểm đó.”

Tuy nhiên, dù bác bỏ cáo buộc “can dự vào các vụ thảm sát ở Huế thời điểm đó,” và dù thừa nhận “những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân,” nhưng trong bức thư, ai, kẻ nào là thủ phạm cuộc thảm sát Mậu Thân ở Huế thì ông Tường không nên đích danh.

Trong bối cảnh dư luận chưa hết phẫn nộ về việc nhà cầm quyền CSVN tổ chức sự kiện Mậu Thân rầm rộ ở Sài Gòn, lời “tự thú muộn màng và thiếu chân thành” của ông Tường càng khiến cộng đồng mạng dấy lên sự phẫn nộ.

Nhà báo tự do Mạnh Kim bình luận: “Tôi không lên án sự chọn lựa chỗ đứng lịch sử của các ông trong thời điểm đó. Thái độ và sự chọn lựa cách thức để nhìn lại mình của các ông hàng chục năm qua mới là điều cần quan tâm. Tôi không chỉ trích sự chọn lựa quá khứ. Tôi chỉ thắc mắc sự chọn lựa hiện tại và cách nhìn hiện tại khi nhắc lại quá khứ. Hàng chục năm qua, các ông vẫn chỉ gỡ tội cho cá nhân mình chứ không phải giải oan cho hàng ngàn nạn nhân, tiếp tục nhất mực rằng những ‘mất mát’ đó là ‘ngoài ý muốn’ và Mậu Thân vẫn là một ‘chiến thắng lịch sử’ – như lời lặp đi lặp lại của Nguyễn Đắc Xuân.

Thái độ hậu chiến và nhãn quan về tội ác chiến tranh của những người như Nguyễn Đắc Xuân đã khiến những kẻ hậu sinh như tôi xin được mạn phép thưa rằng, cho tôi gạt qua sự kính trọng cần có đối với người cao niên để thay bằng một cảm giác đối ngược.”

Comments

Đươc Xem Nhiều Nhất