Sự khác biệt giữa hai miền Nam-Bắc là lòng tử tế



Tác Giả:  Nguyễn Văn Lục

07/10/2023


 


“Bản chất của chế độ ngụy là xấu vậy mà không hiểu sao nó lại đào tạo con người giỏi

thế. Ai cũng lịch sự. Cứ mở miệng ra là cám ơn với xin lỗi. Ngồi ở trong nhà, có ai đi

ngoài đường chõ miệng hỏi cái gì mà mình trả lời xong, cắp đít đi thẳng, không thèm

cám ơn một tiếng, thì không cần nhìn, mình cũng biết ngay đó là dân Bắc Kỳ’’ (Nhận xét

của nhà phê bình văn học Hoài Thanh, sau 1975, Hoài Thanh và vợ dọn vào Sài gòn ở

theo lời kể lại của nhà phê bình Vương Trí Nhàn)

Phần Một


 Miền Bắc: biểu tượng của hận thù


2


Miền Bắc, sau 1954, được gọi là Bức màn tre do những hoàn cảnh xã hội, chính trị khắc

nghiệt, khép kín. Kinh tế sau 1975 kiệt quệ vì nhiều lý do chủ quan và khách quan. Sau

này phải nêu khẩu hiệu xóa đói, giảm nghèo.  Chính những nhà lãnh đạo miền Bắc

cũng  không ai nhìn nhận những lỗi lầm tầy trời này: Dân chúng trong Nam vốn dư ăn,

dư mặc nay phải ăn bo bo, khoai mì như tầng lớp dân chúng miền Bắc. Do thông tin một

chiều, họ  che đậy, dấu kín riết rồi họ không hiểu chính họ, hoặc hiểu mà không chịu

hiểu thì làm thế nào họ hiểu nếp sống,con người miền Nam được.


Học giả Nguyễn Mạnh Tường viết: “Aucun sentence n’est prononcé. Les communistes

ont le gout de la clandestinité. Toutes les décisions sont prises et appliqués dans un

silence de mort. »


(Không có bản án nào được công bố. Người cộng sản thường có thói quen che dấu. Vì

thế các quyết định và việc thi hành đều tuyệt đối bí mật)


(Nguyễn Mạnh Tường. Un Ex-Communié. Hà Nội 1954-1991. Procès d;un intellectuel,

trang 229)


Sự tử tế của miền Bắc hầu như không thể có theo như nhận xét của của nhà phê

bình văn học kỳ cựu Hoài Thanh. Hơn ai hết, ông HT đã hiểu rõ chân tướng của dân

miền Bắc cũng như chính quyền ấy. Chính quyền cộng sản chủ trương phân biệt Bạn-

Thù dứt khoát, chính tà phải phân minh vì chủ nghĩa Marx- Lénine là chân lý sáng ngời,

tuyệt đối. Thù thì phải bôi đen, triệt tiêu và chỉ đáng được được gọi là Thằng.


Đó là một nửa đất nước đã bị nhồi sọ, bị đầu độc từ trên xuống dưới lâu nó trở thành

quán tính.


        Tỉ như bác sĩ nhi khoa Nguyễn Khắc Viện, người đã để nửa đời người

sống bên Pháp, một trí thức hàng đầu hiểu rõ văn hóa, hiểu rõ thế nào là tự do

dân chủ của nước Pháp. Vậy mà khi viết một bài so sánh Cách Mạng và dân

Sàigònđăng trên báo Nhân Dân đã ví von Cách mạng là Sen, dân Sàigòn chỉ

là Bùn và ông NKV đã bị phản ứng dữ dội từ giới trí thức Sàigon. Nguyễn

Trọng Văn lên tiếng trên báo Nhân Dân, nhưng bài của NTV dĩ nhiên đã không

được báo Nhân Dân đăng..


3


Điều đó trước tiên bày tỏ một lập trường rõ rệt giữa Bạn-Thù và hàm ý sự khinh

miệt.  Cách mạng tốt đẹp quá, thơm tho quá!! Cách mạng là SEN. Dân Sài gòn chỉ là

bọn rác rưởi thối tha là đĩ hoặc điếm. Vì thế Dân Sài gòn chỉ là Bùn.


Không có Bùn làm sao Sen nở hoa. Chỉ nhắc nhở ông có bài thơ: Trong đầm gì đẹp

bằng sen. Lá xanh bông trắng lại xen nhị vàng. Nhị vàng bông trắng lá sen. Gần bùn mà

chẳng hôi tanh mùi bùn..


 Nhưng đối với cá nhân ông bác sĩ, điều quan trọng là : Chế diễu như thế là đi đúng

đường lối của chế độ.


        Tỉ như Đào Duy Anh, sau 1975, một học giả ăn mòn bát đĩa cộng sản,

hiểu cộng sản từ chân tơ kẽ tóc, hiểu những mánh khóe tiểu xảo. Vậy mà khi

vào miền Nam gặp các trí thức trong Nam, ông theo thói quen quán tính vẫn

gọi xách mé: thằng Diệm. Nhiều người lảng tránh ông. Đào Duy Anh là tác giả

tập ký: Nhớ nghĩ chiều hôm. Cuốn tập ký lược thuật các công trình biên khảo

của ông viết trong nhiều năm. Trần Huy Liệu khuyên ông: muốn sống, muốn

tồn tại thì liệu viết mà lách nữa. Ở đây, quả thực ông đã thuộc bài do trần Huy

Liệu chỉ dẫn. Tội cho tiếng tăm một học giả. Viết mà sợ, viết mà phải lách

vì sợ bị liệt vị, bị thổi còi!!!


Có thể đây chỉ là một sự lỡ miệng, theo thói quen. Như một Lapsus linguae. Nhưng nó

cũng chỉ ra rằng gọi thằng Diệm là đúng đường lối.


Cũng chả trách được họ. Ông Hồ, theo ông Nguyển Minh Cần(1928-2016) kể lại trong

những buổi họp đảng, có những đồng chi tuổi 80 vẫn bị gọi là các chú theo cái cách cá

mè một lứa.


Nghĩ lại, tôi vẫn thấy tiếc nuối cho thời kỳ vàng son nhân hậu của cha ông để lại như

thời của vua Lý Thánh Tông, thời trước thuộc địa. Nhà tù không phải là công cụ để trừng

phạt. Do chịu ảnh hưởng của Nho giáo, lấy cái tâm, cái đức làm đầu. Nhà vua có lòng

thương người chỉ thị cho triều thần phải phát mền, chiếu và gạo cho tù nhân vào năm

1055:


“Sống trong cung điện có lồng ấp than sưởi và mặc nhiều áo ấm, mà trẫm còn thấy lạnh.

Trẫm hiểu nỗi khổ của người tù bị gông cùm, không đủ cơm ăn, không đủ áo mặc ấm để


4


che thân thể, nhiều tù nhân chết một cách oan uổng trước khi bị luận tội. Trẫm thương

cho họ.”


(Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, tập I. Hà Nội 1972, trg 284)


Phải nhìn nhận với nhau rằng: thật không dễ để làm người tử tế. Còn khó hơn làm

người anh hùng. Bởi vì làm người anh hùng chỉ là việc của một thời. Còn làm người tử

tế là việc của cả một đời.


Đất nước chúng ta do thời chiến tranh 1946-1954 và nhất là 1955-1975 đã tự đánh mất

đi cái lòng thương người, mất đi cái lòng tử tế . Ngoài cuộc chiến quân sự bạo tàn mà

mạng người như cỏ rác, còn có cuộc chiến tuyên truyền ra rả mỗi ngày, đề cao cuộc

chiến giải phóng, cứu nước thần thánh. Nhiều nhà lãnh đạo miền Bắc còn để lại các hồi

ức như:


        Trần Cung, Bùi Công Trừng, Hà Phú Hải, Văn Tiến Dũng, Xuân Thủy. Họ

từng nếm trải cơm tù như Đỗ Mười 5 năm tù Hỏa Lò, sau trốn thoát được vào

năm 1945. Nguyễn Văn Linh, hai lần ở Côn Đảo 1930-1935 rồi 1940-1945 và

nhất là Hồ Chí Minh với “Nhật Ký trong tù “. Những bài học cay đắng trong tù,

được tích lũy thành một mốiNuôi Thù.

        Nuôi Thù ấy đổ lên đầu nhân dân miền Nam vốn hiền lành và vô tư sau

1975. Trong các hồi ký đó, sự thật là bao nhiêu? Pha chế thêm mắm muối bao

nhiêu? Nào ai biết được. Chỉ người trong cuộc mới biết được.

        Ngoài ra, còn những người tù không thuộc phe cộng sản đáng kính nể đòi

đời ghi ơn như Nguyễn Thái Học với Đời trong ngục, 1935 tiếp theo là những

nhân sĩ như Hồ Hữu Tường, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức

Kế. Những người tù này được xã hội kính nể nhất trong xã hội Đông Dương.

Ngô Đức Kế được tôn xưng là chí sĩ Ngô Đức Kế. Phan Chu Trinh được chính

ông Trùm thuộc địa Marius Moutet kính nể. Huỳnh Thúc Kháng được một

người thợ may biếu ttặng cụ một bộ đồ không tính tiền.


(Đọc thêm tác giả Peter Zinoman: The Colonial Bastille. A history of Imprisonment in Viet

Nam 1862- 1940)


5


Về phía những người lãnh đạo cộng sản sau này như Đỗ Mười, Xuân Thủy, Nguyễn

Văn Linh, Văn Tiến Dũng đều là những người nếm trải cơm tù. Chứng chỉ đi tù trở thành

tấm thẻ bài để họ đi vào cửa chính.


Sau này, vẫn thái độ hận thù, miền Bắc vẫn tiếp tục ra rả luận điệu tuyên truyền với

những khẩu hiệu: gọi là Mỹ-Ngụy- Mỹ xâm lược- thực Dân  kiểu mới-Giải phóng miền

Nam..


Họ chỉ quên một điều là sau lưng họ còn có Nga, có Tàu. Ai kéo xe tăng, đại pháo vào

miền Nam. Thế thì Ai xâm lược ai. Ai giải phóng ai? Miền Nam có cần ai giả phóng? Ai

Ngụy hơn ai?


        Vì thế, có lần ông Lê Đức Thọ và ông Xuân Thủy gặp phái đoàn miền

Nam- đại diện là nhóm phản chiến, lực lượng thứ ba- được ra thăm miền Bắc,

ở khách sạn Thắng Lợi. Ông Thọ nói rằng tiếng Ngụycần bỏ đi. Ông Xuân

Thủy phụ họa: Bây giờ mà còn dùng chữ Ngụy là mất dấu nặng. Là Nguy.

Và xin trích dẫn văn bản chính thức của Cục báo chí xuất bản,  số 06BCXB.


Kính gửi: Các cơ quan Thông Tấn  Xã, Đài Phát Thanh, Đài Truyền Hình,các Báo chí

Miền, Thành phố và các Tỉnh.


Chấp hành ý kiến của  lãnh đạo, chúng tôi xin thông báo các đồng chí được rõ:


Kể từ nay, các bài viết đăng trên báo và phát trên đài, ta nên thống nhất dùng chữ :

Những người trong quân đội và chính quyền cũ thay cho chữ:  Ngụy quân và ngụy quân

Sài gòn đã dùng trước đây.


Mong các đồng chí chú ý thực hiện đúng.


Này 17 tháng hai năm 1976.


TM Ban lãnh đạo


Cục Báo chí Xuất bản.


( Ký tên và đóng dấu)


6


T.T.T


(trích dẫn hồi ký của Hồ Ngọc Nhuận Đời hay Chuyện về những người tù của tôi, trg 52-

53-.Ông vừa mới qua đời 1935-2022)


Tưởng rằng từ nay tiếng Ngụy đã đi vào dĩ vãng. Gần nửa thế kỷ, nó vẫn còn văng

vẳng đâu đây.


Sự lăn xả nhập cuộc như lên đồng trong chiến tranh lúc ban đầu cũng như sự dứt khoát

khước từ khi không còn chiến tranh của bà Dương Thu Hương là một tấu khúc hoàn

hảo của toàn thể xã hội miền Bắc.


Bà Dương Thu Hương trả lời phỏng vấn đã tuyên bố: “ Tôi thuộc thế hệ lớn lên trong“

chân lý không bao giờ thay đổi” rằng “nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là

một” , chỉ có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với thủ đô Hà Nội và chủ tịch Hồ Chí Minh là

quốc gia hợp pháp duy nhất trên toàn bộ mảnh đất hình chữ S. Chính quyền Sài gòn là

bù nhìn. Rất lâu sau này, tôi mới nghe danh xưng Việt Nam Cộng hòa.


Chỉ sau này nhiều người trong số họ mới có thái độ phản tỉnh”


”Biện chứng vào và ra là thái độ của nhiều đảng viên kỳ cựu khác- ước mơ-lầm lỡ và bội

phản- như tướng Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Nhật ký Tô Hải  Hồi ký một thằng

hèn, nhất là nhà văn Trần Đĩnh với cuốn Đèn Cù.


 Họ đã lột xác trong đau đớn, bị khinh bỉ, tủi nhục và nỗi cô đơn.


Tóm một lời:


Khi biết được mình đã lầm lỡ thì tóc trên đầu đã bạc phơ!! 


 

Phần Hai về miền Nam với lòng tử tế.


*Lòng tử tế qua các bài học vỡ lòng: Sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư   


7


Sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư xuất bản từ năm 1935 do Nha Học Chính Đông Pháp.

Soạn giả là các ông Trần Trọng Kim và các ông Nguyễn Văn Ngọc,  Đặng Đình Phúc,

Đỗ Soạn… Nó gồm 4 cuốn : một cuốn cho lớp đồng ấu tương đương lớp một. Một cuốn

cho lớp dự bị tương đương lớp hai. Cuốn Sơ Đẳng tương đương lớp 3. Và cuốn Luân lý

Giáo khoa thư nói chung.. Nó thâu tóm toàn bộ các bổn phận làm Người tử tế. Nó bắt

rễ sâu trong tâm thức người Việt Nam trong cách ứng xử với cha mẹ tổ tiên, với Trời

đất, với thày dậy,với chính bản thân mình, với họ hàng, bạn bè, với kẻ ăn người ở, dĩ chí

cả với súc vật. Nó như một gia tài đồ sộ, một thứ Văn Hóa Phi Vật Thể (Văn hóa phi vật

thể là những giá trị tinh thần như Ca dao, Tục ngữc- khác với Văn hóa vật thể như Đền

đài, lăng tẩm. NVL). Văn hóa phi vật thể dành cho mọi người- không trừ- từ ngoài Bắc

trước 54 và tồn tại trong Nam từ 1954-1975.


Lớp trẻ tiểu học coi như những bài học vỡ lòng như hành trang chuẩn bị vào đời. Đây là

những bài học giản dị, dễ hiểu, mỗi bài đều tóm tắt bằng một câu ngắn gọn, khắc in vào

đầu mà nay chính bản  thân tôi còn nhớ được như:


        Với Trời-Đất : Lạy Trời mưa xuống. Lấy nước tôi uống. Lấy ruộng tôi cày.

Lấy đầy bát cơm. Lấy rơm đun bếp…

        Với Cha-Mẹ : Công cha như núi Thái Sơn. Nghĩa mẹ như nước trong

nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha. Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con…

        Với Con Trâu và Người đi cày : Trâu ơi ta bảo trâu nay. Trâu ra ngoài

ruộng trâu cày với ta..

        Nó còn vô số các bài học thực tiễn khác như :Thờ cúng tổ tiên. Anh em

như thể tay chân. Xuân đi học coi người hớn hở.  Một cây làm chẳng nên non,

ba cây chụm lại nên hòn núi cao. Lá rành đùm lá rách. Một con ngựa đau, cả

tàu không ăn cỏ. Thấy người hoạn nạn thì thương. Không tham của người. Có

học phải có hạnh. Chớ nên nói xấu người. Không nên hành hạ súc vật. Học

trò đối với Thày. Nhất là câu chuyện ông Carnot về thăm thày cũ dễ thương và

cảm động : ‘’ Thưa thày, con là Carnot đây..thày còn nhớ con không?

Nó được coi như cuốn cẩm nang hành trang cho tuổi trẻ miền Nam vào đời.


Trong Hương rừng Cà Mâu của nhà văn Sơn Nam, xb năm 1962, có truyện ngắn: ‘’Tình

Nghĩa Giáo Khoa Thư” cho thấy hai người gặp nhau tình cờ, đã từng học QVGKT nên

họ hiểu nhau. Dấu ấn tình tự con người bàng bạc trong thơ văn, trong nếp sống dân


8


giã..của con người Đồng bằng sông Cửu Long, nơi còn được gọi là Văn minh miệt

vườn.


Sau này, ở miền Nam QCGKT được đổi ra thành môn Công Dân Giáo Dục thời VNCH.


Nơi đây, tôi muốn bày tỏ riêng niềm tri ân đối với miền Nam mà tiêu biểu là các thày cô

giáo bậc tiểu học đã cấy vào tâm hồn trẻ thơ của cả một lớp người trẻ trong tinh thần

Giáo Khoa Thư và Luân lý Giáo khoa Thư. Không có họ, không có QVGKT thật khó có

lòng tử tế.


Miền Bắc ngay từ 1935 đến 1954 cũng được thừa hưởng gia tài của QVGKT như

miền Nam qua người dân Hà Nội.. Rất tiếc, sau 1954, Sách QVGKT  như nhiều tài liệu

quy báu khác bị người cộng sản Hà Nội quăng vào sọt rác. Thay vì yêu cha, yêu mẹ,

yêu tổ tiên ông bà. Thay vì yêu bạn bè, yêu súc vật thì nay thay thế bằng một hình tượng

mới: Yêu Bác Hồ. Trẻ con đêm nằm mơ thay vì thấy Tiên thì nay chỉ thấy Bác Hồ.


Việc đầu độc đầu óc trẻ con như thế thật đáng xấu hổ.


Vì thế, ẫu người Người Tử Tế nay hiếm hoi ở miền Bắc. Động một tý là chửi bới, đâm

chém theo luật giang hồ. Xã hội miền Bắc đảo lộn mọi trật tự về cha con, vợ chồng,

bằng hữu. Nay thay bằng mẫu Người Anh Hùng đủ loại. Mẫu người anh hùng ở miền

Bắc thì nhan nhản ngoài đường phố. Ra đầu ngõ là gặp.


 


        Mẫu người Tử tế trong xã hội và chính quyền miền Nam. Miền nam có

cái may mắn là được kế thừa lòng tử tế truyền lại. Vì thế, lãnh đạo chính

quyền có các chính sách khoan hồng, hòa giải như chính sách binh vận, dân

vận, nhất là Chiêu Hồi. Chính sách đó không hẳn là chính trị, nó vượt trên

chính trịmà căn bản, nó dựa trên tình tự tình người như tình nghĩa đồng bào,

tình nghĩa xóm làng, gia đình, họ hàng, bạn bè. Hiện tôi còn giữ trong tay tài

liệu ghi rõ sự quan trọng của chính sách Chiêu Hồi thời đệ nhị Cộng Hòa: Bộ

Thông Tin và Chiêu Hồi. Đánh nhau là truyện bất đắc dĩ. Chiêu Hồi mở

đường cho sự gia nhập, hòa giải.


Cho nên, các tình tự con người trong các chính sách đó được coi trọng hơn là lập

trường chính trị nhất thời.


9


Xin nêu ra một vài trường hợp được kể lại: Có lần nhà thơ Cung Trầm Tưởng nói với

tướng Kỳ- một tướng võ biền đòi đem máy bay bỏ xuống miền Bắc- vào năm 1968

.Thanh Nghị vào khu. Cung Trầm Tưởng nói với tướng Kỳ cho phép anh đưa chị Tâm

Vấn( vợThanh Nghị. Sau này bà Tâm Vấn lấy bác sĩ Nguyễn Đan Quế)) vào ở cư xá

Không quân TSN. Tướng Kỳ đồng ý và thỉnh thoảng hhỏi thăm chị Tâm Vấn có khỏe

không.? Đó là tình người- người vượt ranh giới chính trị.


Trường hợp Thanh Lãng cùng với Nguyễn Văn Trung đi chiếc xe hơi từ Vũng Tàu về, bị

lính Mỹ lấy đá chọi chơi bể kiếng xe. Ông đã gửi thư đến tòa Đại sứ Mỹ phản đối việc

đó. Tòa Đại sứ đã viết thư xin lỗi và đề nghị tiền bồi thường. Người Mỹ  biét tôn trọng

dân chủ, biết tôn trọng luật pháp. Cứ giả dụ, thay vì lính Mỹ, đây là lính Cộng sản

miềnBắc thì liệu họ có bồi thường không?


Những người bạn cùng lớp với tôi thời sinh viên đại học Đà lạt như Dương Văn Ba,

Nguyễn Trọng Văn đều theo bên kia hầu như công khai, nhưng vì tình bạn nên chúng

tôi làm lơ, chả ai tố cáo gì. Mà có tố cáo thì còn có thủ tục pháp lý, có nhân chứng, có

luật sư nữa.


Rồi còn những nhóm thành phần thứ ba hàng vài chục người, thành phần phản chiến,

hoạt động công khai như Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức, Lý Chánh Trung, Lý Quý

Chung có sao đâu!


Họ biết chắc một điều: Phản đối cứ phản đối. Họ không sợ đến an ninh của họ vì không

có chuyện trả thù, không sợ công an chìm mò tới nhà bắt cóc mang đi.


Tôi nghĩ miền Nam thua miền Bắc vì cái tình người, cái lòng tử tế ấy.


Tôi hỏi và tự trả lời. Những hoạt động như thế có thể xảy ra ở Hà Nội hay không?


Vì thế, nhiều người phía bên kia do chính sách Chiêu Hồi đã quay về với chính quyền

miền Nam mà con số lên đến vài chục ngàn người.


Tiêu biểu nhất có thể là nhà văn Xuân Vũ(ông là cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc, rồi

được điều động vào miền Nam trên đường Trường Sơn. Rồi chấp nhận chính sách

Chiêu Hồi.1930-2004)  ông đã có trên 90 đầu sách bao gồm truyện ngắn, truyện dài, hồi

ký. Tôi đã từng đọc ông một cách hứng thú với lối viết không dài dòng, trung thực mà


10


không tuyên truyền bịa đặt, xuyên tạc, cũng không phỉ báng ai, dù là chế độ miền Bắc

mà ông đã từng đi tập kết. Cuốn Đường Đi không đến, tập hồi ký vượt Trường Sơn đã

được trao giải thưởng văn chương toàn quốc, năm 1973.


Ngoài ra, hiện tôi cũng còn giữ một tập tài liệu photocopy khá đặc biệt nhan đề : ‘’Bội

phản hay chân chính’’. Tác giả là cán bộ nằm vùng tên Dư Văn Chất bị mạng lưới tình

báo của Đoàn Công Tác Đặc Biệt miền Trung Ngô Đình Cẩn giam giữ tại trại Lê Văn

Duyệt, đường Tô Hiến Thành. Sau 1975, những người bị tù này được thả ra và chính

quyền cộng sản không tin dùng, vì bị lê Đức Thọ coi là: Có vấn đề. Có người bị nghi

ngờ vu khống, mất chức  hoặc chết oan uổng sau 1975 chỉ vì câu nói của Lê Đức Thọ,

trưởng ban tổ chức Trung Ương. Họ với họ từng là đồng chí, nay nghi ngờ nhau.


Người cộng sản lại sợ chính người cộng sản


Ông Dư Văn Chất đã viết tập tài liệu này để biện minh cho việc họ vẫn trung thành với

đảng. Ông viết : ‘’Bằng tác phẩm này, tôi muốn nói với Đảng, với người thân và bạn

bè, với người yêu và kẻ ghét, nói thay cho người đã chết và cho cả người còn

sống.’ Tập ký 233 trang đề 19 tháng 8 và 2 tháng 9, 1992 và tháng 7, 1993. Đặc biệt

nhờ ông Trần Quốc Hương ( tức Mười Hương), có thời là UVTƯĐ, linh hồn của cục tình

báo viết thư tay cho ‘Anh Hai Tân, phó bí thư Thành Ủy và anh Tư Sang, phó bí thư

Đảng Ủy TP. HCM, yêu cầu cho xuất  bản. Không được bị từ chối. Họ đành in phocopy

100 bản và đây là một trong những bản ấy’’.


Xin trích dẫn một phần tập tài liệu đề cập đến trại giam Lê Văn Duyệt của ông Ngô Đình

Cẩn.


Những sự kiện như thế là một thực tế có thật, chỉ có thể xảy ra ở miền Nam mà

không thể nào xảy ra ở miền Bắc.


Sau này, với các trại Tập Trung Cải tạo một lần nữa sự độc ác, sự dã man của chế độ

Hà Nội.


Tôi dám gọi các trại cải tạo ấy là một thứ tội ác chống lại con người. Ngụy quân,

ngụy quyền bị nhồi sọ, tẩy não. Họ bị Giam không xét xử. Không thời hạn. Có

người bị giam đến 17 năm tù”; Đó là một thứ nghĩa địa chôn vùi cuộc sống của

người tù. Tất cả là một sự tính toán tinh vi, tàn bạo để con người chết chậm, chết


11


dần dần đến tàn tạ. Nhiều người khi được thả về chỉ còn là một tấm thân tàn phế

như một phế vật.


Vì thế, tôi mới ngộ ra, các nhà văn miền Bắc có từ: Sống mòn. Gớm thay, tội ác của

cộng sản. Người miền Nam khó có thể quên được.


        Lòng tử tế của miền Nam còn rộng mở đón nhận những tinh hoa từ miền

Bắc.


Điều này càng cho thấy đất Bắc không thực hiện được lòng tử tế, vì toàn bộ miền Bắc

bao phủ cuộc chiến với hận thù với xác quân thù. Quân thù nào, là ai? Chúng ta cứ thử

nghe bài quốc ca- còn được gọi là Tiến Quân Ca do Văn Cao sáng tác- được coi là là

linh thiêng, là linh hồn của tổ quốc với nội dung rực lửa kể từ ngày 2 tháng chín năm

1945 đến nay đã hơn 70 năm!!:


‘’ Đoàn quân Việt Nam đi . Chung lòng cứu quốc


Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa


Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước.


Súng ngoài xa chen khúc quân hành ca.


Đường vinh quang xây xác quân thù.


Thắng gian lao cùng nhau lập chiến khu


Vì nhân dân chiến đấu không ngừng


Tiến mau ra xa trường. Tiến lên. Cùng tiến lên


Nước non Việt Nam ta vững bền.


Bài hát xem ra không hợp thời nữa. Đáng nhẽ phải đổi.


Bản thân người viết đón nhận những nhà văn miền Bắc trong tâm tình tử tế và kính

trọng. Những nhà thơ, những nhạc sĩ như gia tài chung của Việt Nam mà không chút nề


12


hà. Những nhà văn lớp Nho học còn sót lại như Ngô Tất Tố. Ông từng đả kích những

ông quan đầu sỏ như  Hoàng Trọng Phu, Phạm Quỳnh: ‘’Ấy thế mà ông chủ bút Nam

Phong chỉ nhảy đánh vọt một cái lên làm được ghế Thượng Thư bộ giáo dục, bàng quan

ai cũng phải ngạc nhiên. Người ta tưởng tượng như đứng trước một trò rất phi thường

trong rạp xiếc.”


(Phê bình Văn Học, Nguyễn Huy Tưởng, Ngô Tất Tố, Tô Hoài , trg 149).


Ông viết Việc Làng, Lều Chõng. Nhưng Tắt Đèn là tác phẩm hiện thực xuất sắc nhất với

hình ảnh chị Dậu.Tôi đã có dịp đọc tất cả trong sự say sưa và nể phục. Rồi những nhà

văn như Trần Tiêu (tác phẩm Con Trâu),ông là em ruội Khái Hưng .


Rồi một lượt những nhà văn như Nguyễn Tuân với Chùa Đàn,Tóc chị Hoài, nhất là Vang

bóng một thời mà theo Vũ Thư Hiên ông được coi như bậc thầy của ngôn ngữ :” Chữ

nào ông dùng cũng đắt, khó thay bằng chữ khác”. Rồi đến Tô Hoài, Nguyên Hồng.Tôi

còn giữ Tuyển tập Nguyên Hồng, xb 1985. Đọc mà ngậm ngùi. Tô Hoài với Dế mèn

phiêu lưu ký(1941), O chuột, xóm Mới, Nhà nghèo.


Cũng phải kể đến thi sĩ Hồ Dzếnh với những bài thơ lục bát mượt mà. Nói chi đến Xuân

Diệu, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Khái Hưng, Nhất Linh trong các giáo trình của các lớp

trung học đệ nhị cấp của VNCH trước 1975. Lưu Trọng Lư còn đình  đám hơn với bài

Tiếng Thu , chỉ có 9 câu được phổ nhạc: Em không nghe mùa thu. Dưới trăng mờ thổn

thức. Em không nghe rạo rực. Hình ảnh kẻ chinh phu. Trong lòng người cô phụ


Nhạc có Văn Cao sánh vai cùng với Trịnh Công Sơn, Phạm Duy một thời. Nhưng số

phận ông cũng hẩm hiu mặc dầu là người sáng tác ra bài Tiến quân ca.


Nhưng trước hết và hơn cả là Nam Cao. Ông đã thênh thang vào ngưỡng cửa trường

đại học văn khoa Sài gòn với truyện ngắn Chí Phèo. Đến ngay những nhà văn nổi tiếng

một thời như Mai Thảo, Doãn Quốc Sĩ, Võ Phiến của miền Nam cũng không có được cái

vinh dự ấy.


Trong khi số phận những nhân tài đất Bắc, số phận họ ra sao? Họ đều phải Tự kiểm

duyệt, nơm nớp sợ bị thổi còi như Nguyễn Tuân, như học giả Đào Duy Anh, như Văn

Cao và rất nhiều văn nghệ sĩ khác..


13


Văn học miền Bắc đã có cắm cột mốc: muốn làm gì thì làm, nhưng không được động

đến chính trị. Tôi nghĩ đến một xứ chột bị bịt mắt, bịt mồm. Đời sống thì lao đao

túng bấn như Văn Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài.


Số phận những trí thức, nhà văn miền Nam ấy ra sao sau 1975?


Còn ra sao nữa!! Bị Truy dập, bị tù đầy. Cả 200 giới văn nghệ sĩ Sài gòn đều bị bắt đi tù,

đi cải tạo.


Mà cái tội chỉ vì cầm bút.


Như Vũ Hoàng Chương, Doãn Quốc Sỹ. Hoàng Hải Thủy, Tạ Tỵ, nhà văn Thảo Trường

, Nguyễn Thụy Long và nhiều người khác vv..


Trong số đó có Nguyễn Văn Trung. Theo Nguyễn Văn Trung viết lại, một người trong Ủy

Ban Quân Quản ĐHVK Sài gòn nói: ‘’ Chúng tôi không bố trí anh dạy học vì không thích

hợp với cách chúng tôi đang thực hiện và để anh tự ý nghiên cứu theo lối nhìn của anh,

thì những công trình nghiên cứu của anh sẽ ích cho đất nước nhiều hơn”.


Nhưng nếu không dạy học, không có lương lấy gì mà sống?


Đã hết đâu, ba năm sau, ông bị bắt giam, kết tội là: Phản động, C.I.A cho Mỹ(có thể bị

tử hình hoặc chung thân). Vào chiều ngày 14-6-1978, một toán công an đến đọc bản án

và xét nhà, ông đã chỉ cho họ vác tài liệu để họ lấy mang đi đầy một xe LaDalat. Sáng

hôm sau, một xe tải lớn đến tịch thu kho sách trên sân thượng. Nhưng nghĩ thế nào, họ

lại thôi. Chỉ niêm phong. Ông bị biệt giam một mình. Ngày ngày chỉ viết các bản tự khai.

Sợ quá tưởng chết, ông viết chúc thư xin lỗi bạn bè, nhất là bà con anh em ruột thịt về

những lời nói việc làm của ông. Con trai trưởng của ông chứng kiến cảnh bố bị bắt giam

nên đã quyết định tìm đường vượt biển và đã sang định cư ở Canada.


Làm C.I.A cho Mỹ mà NVT không nói được một câu tiếng Mỹ. Phải nhờ Đặng Tiến hay

Nguyễn Hữu Thái thông dịch. C.I.A nào nó mướn?


6 tháng sau, bất ngờ ông được trả tự do ở sở công an với lý do: Tạm tha vì lý do sức

khỏe..


14


Từ Phản động đến tha là một điều không hiểu được.


Phần tôi, ngay từ hồi còn trẻ ở Hà Nội, trước 1954, tôi đã từng chứng kiến xác những

người đàn ông, đàn bà, chết cong queo, ám khói đen, vì cộng sản gài mìn trên đường số

5-Hà Nội- Hải Phòng.


Lúc mới 5,6 tuổi, ở nhà quê, tôi đã nhìn thấy xác ngươi bị bỏ rọ, trương phình như lợn

quay vập vờ đập vào kè đá cửa sông Đáy.


Những hình ảnh ấy đạp vào trí não tôi, không phai mờ


Tôi đã ghi lại những hình ảnh ấy trong một bài viết: Câu truyện của một dòng sông.


Đúng như nhà văn Bùi Ngọc Tấn tâm sự :’’ Có lẽ lại phải viết thôi. Viết về tuổi trẻ bị đánh

mất. Viết về tuổi già xót xa tuổi trẻ. Về nỗi xót thương nhau trong những trái tim mệt mỏi,

những mái đầu bạc đang tính đếm những ngày còn lại. » ( Trả lời phỏng vấn với  nhà thơ

Phạm Tường Vân trong dịp cuốn’’ Chuyện kể năm 2000 »  vừa được xuất bản).


Dù sao, sau này ông NVT cũng có được một câu để đời giống vài người như  Lý Chánh

Trung, Ngô Công Đức.


Lý Chánh Trung trên báo Tuổi Trẻ, năm 1988 có viết một bài về môn học triết lý K. Marx

mà trước đây ông đã chót từng ca tụng thì nay ông chế diễu ‘’Về một môn học mà thày

không muốn dạy, trò không muốn học”.


Còn dân biểu Đối lập Ngô Công Đức thì thẳng thừng hơn: ‘’Tôi có hai điều không

ưa. Đó là tôi không thích những người công an.Tôi cũng không thích người Bắc

Kỳ”. 


Nguyễn Văn Trung thì văn hoa hơn:’’ Tham gia cách mạng là tham gia vào một quá

trình tự hủy diệt sau này”.


Phần tôi, tôi khẳng định triệt để, tôi giã từ người cộng sản ngay từ khi bước lên máy bay

từ phi trường Gia Lâm di cư vào miền Nam năm 1955. Và sau nay cả đời tôi cho đến

bây giờ.


15


Bởi vì họ thiếu tình người. Bởi vì họ không  là những người tử tế.

Nguồn: Sự khác biệt giữa hai miền Nam-Bắc là lòng tử tế - Nguyễn Văn Lục

1. https://www.danchimviet.info/su-khac-biet-giua-hai-mien-nam-bac-la-long-tu-

te/10/2023/29802/

2. https://tiengquehuong.wordpress.com/2022/06/15/su-khac-biet-giua-hai-mien-nam-

bac-la-long-tu-te/

3. https://baovecovang2012.wordpress.com/2023/02/04/su-khac-biet-giua-hai-mien-

nam-bac-la-long-tu-te-nguyen-van-luc/

 

AUDIO: VT

1. https://www.youtube.com/watch?v=eEXa-htwSfo

2. https://www.youtube.com/watch?v=GchUYXOWrwE

Comments

Đươc Xem Nhiều Nhất