Nước Mỹ sẽ không bị sụp đổ!
Nguyễn Xuân Tùng
Diễn Đàn Kitô-hữu
25-07-14
Trước hết, tôi xin cảm ơn quý độc giả đã quan tâm góp ý với những bài viết của tôi, để tôi mở rộng tầm hiểu biết của cá nhân mình và cùng nhau xây dựng cộng đồng người Việt trên trên tinh thần xây dựng đi tìm sự thật. Thay vì trước đây luôn có bất đồng chụp mụ cho nhau theo kiểu mỳ ăn liền. tìm cách chụp mũ này mũ kia cho nhau một cách vô căn cứ theo kiểu cộng động tỵ nạn còn hận thù ngờ vực chống nhau hơn chống cộng mà chẳng cần đưa ra những chứng lý xác thực nào. Vì thế thiển nghĩ đối luận trên tinh thần xây dựng đi tìm sự thật thì luôn luôn là rất hữu ích.
Nhưng “cha mẹ sinh con trời sinh tính”, làm râu trăm họ là chuyện gian nan rất khó. Người viết làm theo lương tâm của mình không có ác ý với ai. Nhất là ai cũng biết đi giữa hai làn đạn thì chắc chắn sẽ bị cả đôi bên lên án kết án. Mặc dù có nhiều vấn đề thời sự bất đồng ý kiến tại chỗ nhưng cần phải có thời gian, phải chờ tới tương lai mới biết cái lý luạn nào là đúng, cái nào là sai. Nhưng đối luận trong đứng đắn thì dù quan điểm cảm tính có khác nhau cũng vẫn luôn là tốt:
“Ở sao cho vừa lòng người,
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.
Cao chê ngỏng, thấp chê lùn,
Béo chê béo trục béo tròn,
Gầy chê xương sống xương sườn phơi ra”!
* * * * *
Và bây tôi xin vào đề: “Nước Mỹ sẽ không bị sụp đổ”!
I-LỊCH SỬ HOA KỲ GÂY DỰNG MỘT DÂN TỘC TỰ DO
Khi các đại biểu từ 13 tiểu bang tiên khởi Hoa Kỳ thuộc địa tụ họp tại Philadelphia năm 1776 để ký Tuyên ngôn Độc lập, họ không chỉ phản đối sự cai trị hà khắc của vua George III nước Anh, mà còn xác quyết một nguyên lý thiêng liêng: mọi người đều được Đấng Tạo Hóa ban cho những quyền bất khả xâm phạm, gồm có quyền sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc. Tuyên ngôn đó là bản án dành cho vương quyền chuyên chế, nhưng cũng là giao ước thiêng liêng của một dân tộc đặt nền móng trên đức tin vào “In God We Trust”và phẩm giá con người.
Sau chiến thắng Cách mạng 1776, Hiến pháp 1789 ra đời, khôn ngoan đặt ra ba ngành quyền lực kiểm soát lẫn nhau –Hành Pháp-Tư Pháp-Lập Pháp- đồng thời bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tín ngưỡng, và tự vệ qua Tu Chính Án thứ nhất và thứ hai. Các tổ phụ người Hoa Kỳ không ngây thơ nghĩ nước Mỹ sẽ luôn có lãnh đạo lương thiện vì dân vì nước. Trái lại, họ đã lường trước ngày sẽ có tổng thống gian tà như George III, nên mới trao vào tay người dân quyền hiến định để lên tiếng và, nếu cần, đứng lên bảo vệ nền Cộng Hòa của các Tiểu Bang và của chính phủ Liêng Ban.
Nước Mỹ cho tới nay: 2025-1776 đã tồn tại được 249 năm với 47 đời tổng thống. Nhưng chưa có nhà cầm quyền gian ác nào như George III để người dân thực thi nghĩa vụ mà Tu Chính Hiến Pháp số hai đã trao phó trách nhiệm cho ho. Nhưng chưa có không có nghĩa là sẽ không bao giờ có. Trong Bầu Cử Tổng Thống 2020 cũng có người lo sợ có nội chiến. Tôi đã viết bài khẳng định chỉ khi nào Tổng Thống Joe Biden gian ác như George III thì Hoa Kỳ mới có nội chiến như hiến pháp đã phòng ngừa trước.
II- Cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ: Nỗi đau chia rẽ và ánh sáng lương tâm
Cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ (1861–1865) là một biến cố kinh thiên động địa trong lịch sử Hợp Chủng Quốc. Nó không chỉ là sự xung đột vũ trang giữa hai miền Nam–Bắc, mà còn là trận chiến tâm linh giữa quyền lợi kinh tế và lương tri đạo đức, giữa chế độ nô lệ và khát vọng công chính. Đằng sau khói lửa và binh đao, cuộc chiến ấy là một lời cảnh tỉnh cho mọi thế hệ: Một quốc gia không thể tồn tại lâu dài nếu nội tâm bị phân rẽ bởi bất công. Nhưng nó vẫn chưa phải là cuộc nội chiến do Hiến pháp Hoa Kỳ dự trù.
2.1-Bối cảnh và nguyên nhân
Khi Nam Bắc chia rẽ vì chế độ nô lệ, nước Mỹ lâm vào thử thách lớn nhất từ khi lập quốc. Một bên khăng khăng giữ quyền sở hữu nô lệ, nhân danh quyền tự trị các tiểu bang. Bên kia, do Tổng thống Abraham Lincoln lãnh đạo, không chỉ muốn giữ Liên Bang thống nhất, mà còn khẳng định rằng: “Không ai có quyền bắt người khác làm nô lệ cho mình”
Vào năm 1861, Hợp Chủng Quốc có 34 Tiểu Bang. Trong đó, 11 tiểu bang miền Nam đã ly khai để thành lập Liên Minh Miền Nam, nhằm bảo vệ quyền duy trì chế độ nô lệ, vốn là nền tảng của nền kinh tế đồn điền bông vải và mía đường. Tổng thống Abraham Lincoln, người đắc cử năm 1860 với quyết sách chống mở rộng chế độ nô lệ, không công nhận quyền ly khai ấy. Trong bài diễn văn nhậm chức đầu tiên, ông kêu gọi các bang miền Nam hãy ở lại trong tình huynh đệ, nhưng không thỏa hiệp với điều ông xem là "sai trái về mặt đạo lý."
Chính Lincoln đã từng nói: "Một nhà không thể đứng vững nếu chia rẽ nhau. Một quốc gia vừa có nửa tự do vừa nửa nô lệ sẽ không thể trường tồn" (Mc 3,25). Lời ấy phản ánh tinh thần Phúc Âm, soi rọi chân lý giữa cơn khủng hoảng chính trị.
2.2-Quân phục, trận đánh và tướng lĩnh
Trong các buổi diễn tập tái hiện lịch sử mà tôi cùng nhiều người ngày nay vẫn tham dự, thường thấy binh sĩ Liên minh miền Nam mặc quân phục xám, còn binh sĩ Liên bang miền Bắc mặc quân phục xanh đậm. Tuy có sự khác biệt địa phương và từng giai đoạn, hai màu này phần lớn đúng với thực tế lịch sử.
Cuộc chiến lên tới đỉnh điểm và kết thúc với trận Appomattox Court House, Virginia (ngày 9 tháng 4 năm 1865), khi Tướng Robert E. Lee của miền Nam đầu hàng Tướng Ulysses S. Grant của miền Bắc. Hai vị tướng đối đầu ấy đều được kính trọng về tài thao lược và nhân cách. Trong khi Lee chọn chiến đấu vì lòng trung thành với Virginia, thì Grant chiến đấu để gìn giữ Liên bang và lý tưởng tự do.
Kết quả: Quân miền Bắc chiến thắng, Lee đầu hàng vô điều kiện. Đây được xem là trận chính thức chấm dứt Nội chiến. Grant cho phép quân miền Nam được trao trả vũ khí và về nhà nếu không tái khởi nghĩa – điều cho thấy thái độ khoan dung và ý hướng tái hòa hợp dân tộc.
2.3-Ý nghĩa đạo lý “In God We Trust soi dẫn
Nội chiến không chỉ là vấn đề chính trị hay kinh tế. Đó là câu hỏi lớn về đạo lý: con người có quyền làm chủ người khác không? Người da đen có phải là con người thực thụ, có linh hồn như người da trắng không? Câu hỏi này, ngày nay nghe tưởng đã lạc hậu, nhưng vào thế kỷ 19, vẫn là điểm tranh cãi tại nhiều giáo phái và nghị viện.
Trong thư gởi tín hữu Galát, thánh Phaolô viết: "Không còn chuyện Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ; vì tất cả anh em là một trong Đức Giêsu-Kitô" (Galát 3:28). Đó là lẽ thật vĩnh cửu mà phong trào bài trừ nô lệ đã nêu cao, kể cả từ các mục sư Tin Lành da trắng và da đen, từ các nhà truyền giáo và nhà văn nữ Harriet Beecher Stowe với tác phẩm "Túp lều của chú Tom."
2.4-Một vết thương và một lời nguyện cầu
Nội chiến đã cướp đi hơn 600.000 sinh mạng. Đằng sau mỗi xác chết là một gia đình tan nát, một linh hồn đau khổ. Nhưng từ máu đào ấy, một quốc gia đã được thanh tẩy để trở nên công chính hơn.
Nội chiến còn là tiếng chuông cảnh tỉnh: Nếu một nền dân chủ không dám đấu tranh cho công lý, thì chính nó sẽ trở thành trò đùa của lịch sử. Đó là lý do Lincoln gọi cuộc chiến là “một thử nghiệm xem một quốc gia được khai sinh trong tự do và bình đẳng có thể trường tồn không”? Cuộc chiến kết thúc với chiến thắng của phe Liên Bang Miền Bắc tại trận Appomattox đã đánh mất gần 750.000 sinh mạng nhưng đã bãi bỏ được chế độ nô lệ tại Nước Mỹ với Tu Chính Hiến pháp thứ 13.
2.5-Một kết thúc nội chiến bình an
Không thù hận, quân tướng Liên Minh Miền Nam giao nộp vũ khí và trở về quê hương bản quán bình an vô sự -không chém giết bắt bớ, giam cầm tù đày. Và cả hai bên cùng nhau tiếp tục chung vai sát cánh xây dựng Nước Mỹ giàu đẹp hùng cường, cứu khốn phò nguy, xứng đáng đứng đầu thế giới tự do ngày nay.
Hôm nay, Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ và những ngưởi Việt tỵ nạn chúng ta nhớ lại Nội chiến Hoa Kỳ không phải để khơi lại hận thù, mà để học bài học yêu thương, hòa giải, và công lý. Xin Đấng Tạo Hóa thương ban chữa lành những vết thương vẫn còn rỉ máu trong lòng lịch sử Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, và cho tất cả mỗi người chúng ta can đảm sống theo sự thật.
"Phúc cho ai kiến tạo hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa." (Mt 5:9)
Kinh Thánh không bàn trực tiếp đến các cuộc nội chiến hiện đại, nhưng những nguyên tắc đạo lý ngàn đời trong đó vẫn soi sáng lương tâm con người mọi thời đại. Khi người Mỹ đối diện với chính mình trong cuộc Nội Chiến 1861–1865, họ không chỉ đối đầu về kinh tế hay quyền lực tiểu bang, mà còn đối diện với chính tiếng nói từ vang vọng “In God We trust”đã được in ấn trong lương tâm lương tri họ.
Vì như kinh thánh đã viết: “Ngươi chớ áp bức người xa lạ; vì các ngươi đã biết tâm trạng người xa lạ, bởi các ngươi cũng đã là khách lạ trong đất Ai Cập.” (Xuất Hành 23:9) – Câu này không chỉ là một luật đạo đức, mà là một nhắc nhớ lịch sử: Mọi dân tộc đều đã từng bị áp bức, và chỉ khi nhớ lại thân phận của mình đã từng bị áp bức, họ mới có thể hành xử công chính với tha nhân.
Chế độ nô lệ – căn nguyên sâu xa của cuộc chiến – là một xúc phạm đến chính hình ảnh Thiên Chúa nơi con người. Khi Thánh Kinh dạy: “Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh Ngài” (St 1:27), thì mọi hành vi hạ thấp phẩm giá con người đều là sự xúc phạm đến Đấng Sáng Tạo.
Chính vì vậy, Abraham Lincoln đã cảm nghiệm sâu sắc rằng cuộc chiến này là một cuộc thanh tẩy đạo đức, một hình thức “sám hối lịch sử” mà dân tộc Hoa Kỳ buộc phải trải qua. Ông nhận ra, giống như ngôn sứ Amos từng cảnh báo Israel:
“Ta ghét, Ta khinh thường các đại lễ của các ngươi… Hãy để cho công lý tuôn tràn như nước, và chính trực như suối không bao giờ cạn.” (Amos 5:21,24)
Cuộc chiến ấy, dù tàn khốc, đã mở đường cho một định nghĩa mới về tự do – không chỉ là quyền của người mạnh, mà là ân ban phổ quát của Đấng Tạo Hóa. Như lời Đức Kitô phán: “Các ngươi sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải thoát các ngươi.” (Gioan 8:32)
3-Những bài học rút ra từ cuộc nội chiến Hoa Kỳ
Song chiếu với Kinh Thánh, chúng ta có thể nói rằng Nội Chiến Hoa Kỳ là một giai đoạn Phán Xét, nơi sự thật và công lý của “In God We Trust” đi vào lịch sử trần thế. Nó cũng giống như thời Cựu Ước, khi dân Chúa bị thử thách để thanh lọc lòng trung tín.
Và một lần nữa, hôm nay, khi nhìn lại cuộc nội chiến, chúng ta không chỉ nhớ tới máu đổ thịt rơi, mà còn nên tự hỏi: Nước Mỹ có còn đang tái lập những hình thức nô lệ mới không? Nô lệ của tiền bạc, của chủ nghĩa chủng tộc tinh vi, của thờ ơ trước nỗi đau của người khác?
Tiếng Chúa vẫn vang lên:
“Ta đã sai ngươi rao truyền tự do cho kẻ bị giam cầm, trả lại ánh sáng cho người mù, giải thoát kẻ bị áp bức.” (Lc 4:18)
4- Tổng thống Lincoln, đã bị ám sát vì giải phóng chế độ nô lệ
Tổng thống Lincoln, trong bài diễn văn Gettysburg (1863), đã khấn nguyện: "Rằng những người đã hy sinh nơi đây sẽ không chết cách vô ích – rằng đất nước này, dưới sự quan phòng của Thiên Chúa, sẽ có một nền tự do mới – và chính quyền của dân, do dân và vì dân sẽ không bị tiêu diệt khỏi mặt đất."
Vì thế Nội chiến không làm nước Mỹ gục ngã, thì những bất hòa, chia rẽ, xáo trộn nhất thời hiện nay cũng không thể nào làm nước Mỹ sụp đổ được — nếu người dân biết đứng lên bảo vệ tự do bằng trí tuệ, chân lý, hòa bình công chính. Không bằng ghen ghét hận thù.”
Nội chiến không làm nước Mỹ gục ngã, thì những bất hòa tranh chấp quyền lợi, coi nhau như kẻ thù giữa cá nhân với cá nhân, giữa phe nhóm với phe nhóm, giữa đảng Cộng Hòa với đảng Dân Chủ đã nhiều lần đặt quyền lợi các nhan, đảng phái lên trên quyền lợi Hợp Chủng Quốc cũng không thể làm cho nước Mỹ sụp đổ được — nếu người dân biết đứng lên bảo vệ tự do bằng trí tuệ, không phải bằng thù hận.”. Ngoài ra, nước Mỹ sinh sau đẻ muộn, chỉ mới tồn tại 249 năm kể từ năm lập quốc 1776 nhưng luôn lột xác, luôn canh tân đổi mới và luôn đem chiến tranh chống kẻ thù ra ngoài phạm vi đất nước Hoa Kỳ và chưa hề có cuộc chiến tranh đảo chính nào ngoại trừ cuộc nội chiến giải phóng nô lệ giữa Miền Bắc và Miền Nam.
Vì chỉ có sự thật mới giải phóng loài người chúng ta và Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ./-
Nguyễn Xuân Tùng
Diễn Đàn Kitô-hữu
25-07-14
Comments
Post a Comment