Tin Buồn Văn Nghệ
Tin Buồn Văn Nghệ: Họa sĩ nổi tiếng Hồ Thành Đức, từ trong nước, ra đến hải ngoại, vừa qua đời! hưởng thọ 85 tuổi!
*Hồ Thành Đức & Bé Ký, đây là một cặp vợ chồng nghệ sĩ hiếm hoi, cả hai đều là họa sĩ, nổi danh nhất tại miền Nam Việt Nam trước đây, cũng như ở hải ngoại sau này.
-Anh Hồ Thành Cung, con trai cố họa sĩ xác nhận qua Facebook như sau: “Hồ Thành Đức mất trong bệnh viện Kaiser Permanente Riverside vì triệu chứng giai đoạn cuối bệnh mất trí nhớ (Alzheimer’s) lúc 6 giờ 30 phút sáng Thứ Hai, ngày 17 Tháng Ba, 2025.”
Họa sĩ Hồ Thành Đức là phu quân của họa sĩ Bé Ký, người qua đời hồi Tháng Năm, 2021. Đây là một trong ít cặp vợ chồng họa sĩ nổi danh tại miền Nam Việt Nam trước đây cũng như ở hải ngoại sau này.
Theo bekyhothanhduc.blogspot.com, họa sĩ Hồ Thành Đức sinh năm 1940 tại Đà Nẵng, mồ côi từ lúc 2 tuổi, sống trong nghèo khó, và trưởng thành một cách chật vật tại một đất nước bị xâu xé vì chiến tranh.
Ông tốt nghiệp Cao Đẳng Mỹ Thuật Quốc Gia Sài Gòn. Ông là sáng lập viên đồng thời là chủ tịch Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam (1968-1975), giáo sư hội họa Viện Đại Học Vạn Hạnh (1969-1975), khoa trưởng ngành Họa Thực Tiễn tại Đại Học Phương Nam (1974-1975).
Ông đến Mỹ cùng với gia đình định cư tại Orange County, California, năm 1990.
Ông từng đoạt giải nhất Triển Lãm Mùa Xuân ở Sài Gòn năm 1963. Đoạt giải cao nhất tại Triển Lãm Công Giáo Quốc Gia ở Sài Gòn năm 1964, và giải thưởng cao nhất tại Triển Lãm Hội Họa Tôn Giáo Quốc Gia Việt Nam năm 1973.
Ông cũng từng tổ chức triển lãm tranh tại nhiều nơi như Ấn Độ, Sri Lanka, Đài Loan, Nhật, Philippines, và nhiều tiểu bang của Hoa Kỳ.
Trên trang blog cá nhân của mình, họa sĩ Hồ Thành Đức bày tỏ: “Nghệ thuật là ngôn ngữ quốc tế. Nó là cách để diễn tả những suy nghĩ bí mật của chúng ta. Trong nghệ thuật, sự đau đớn kéo dài hơn niềm vui.”
Hiếm là, họa sĩ Bé Ký, hiền thê của ông, xuất thân cũng mồ côi như ông.
“Cung cách của Bé Ký và Hồ Thành Đức thể hiện xuất phát từ những năm mồ côi hồi còn nhỏ. Bé Ký thể hiện hình ảnh gia đình bà chưa bao giờ có trong khi Hồ Thành Đức cho thấy một sự cô đơn vì không có cha mẹ trong hoàn cảnh chiến tranh, mặc dù tranh của ông sau này thể hiện một sự chữa lành và gắn kết, với hy vọng về tương lai,” theo trang blog cá nhân của hai vợ chồng họa sĩ.
Cho đến nay, họa sĩ Hồ Thành Đức thực hiện được hơn 300 tác phẩm hội họa. Ngoài ra, ông cũng là một nhà thơ, với những bài thơ nói về tâm trạng của mình với đất nước, cha mẹ…
Trong chốn bạn bè, ông được nhiều người biết qua tài làm thơ và kể chuyện tiếu lâm.
Chút Tiểu sử về Họa sĩ Hồ Thành Đức
(Mặc Lâm)
(tranh Hồ Thành Đức)
-Họa sĩ Hồ Thành Đức sinh năm 1940 tại Đà Nẵng, Quảng Nam. Ông tốt nghiệp Cao Đẳng Quốc Gia Mỹ Thuật Sài Gòn, sáng lập viên đồng thời là chủ tịch của Hội Họa sĩ Trẻ Việt Nam (1968-1975), Giáo sư hội họa Viện Đại Học Vạn Hạnh (1969-1975), Khoa trưởng ngành Họa Thực Tiễn tại Đại Học Phương Nam (1974-1975). Ông đến Mỹ cùng với gia đình năm 1989 và hiện nay đang sống cùng với vợ là Họa sĩ Bé Ký và gia đình tại tiểu bang California.
Ông đã có rất nhiều cuộc triển lãm trong và ngoài nước. Tranh của ông cũng có mặt tại nhiều viện bảo tàng danh tiếng trên thế giới trong đó phải kể đến Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Smithsonian tại thủ đô Washington. Tranh của ông được đánh giá cao bởi nhiều cây bút phê bình hội họa trong và ngoài nước.
Giới hoạt động mỹ thuật tại Việt Nam từ xưa đến nay không ai quên ngôi trường mỹ thuật đầu tiên tại Hà Nội do ông Victor Tardieu thành lập vào năm 1925, đó là trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương. Những ảnh hưởng lớn lao của ngôi trường này từ những lớp đầu tiên kéo dài nhiều thế hệ họa sĩ trong Nam lẫn ngoài Bắc. Những tên tuổi lớn như Bùi Xuân Phái, Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng và Tô Ngọc Vân....Tuy non trẻ nhưng những họa sĩ của lớp tiên phong này đã tạo được sự tin tưởng của lớp trẻ vào nền mỹ thuật nước nhà lúc đó vẫn còn lệ thuộc rất nhiều vào các trường phái mỹ thuật lúc đó tại Pháp, mà nổi bật nhất là trường phái ấn tượng với các danh họa như Claude Monet, Pissarro, Cézanne hay Renoir...
Phải biết chê tranh trong viện bảo tàng và phải biết khen nó như thế nào, chớ không phải chúng ta cứ đinh ninh mấy ông đó là thầy ta thì ta không thể nào vượt được, vì hoàn cảnh lúc bấy giờ là như vậy.
Ảnh hưởng này bắt nguồn từ Victor Tardieu, hiệu trưởng đầu tiên của trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương, ông đã xây dựng chương trình học của trường trên khuôn mẫu của L'Ecole des Beaux Arts tại Paris, và mang theo ảnh hưởng của chủ nghĩa Ấn Tượng Pháp vào Việt Nam với một lòng nhiệt thành đối với sinh viên người bản xứ.
Nhiều họa sĩ Việt Nam trong thời kỳ này bị ảnh hưởng nặng nề lối tư duy cũng như đường nét mà họ lĩnh hội tại Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương, và họ mang cách nghĩ, cách vẽ này truyền lại cho nhiều thế hệ sau này qua các lớp hội họa từ các trường cao đẳng mỹ thuật trong Nam ngoài Bắc.
Sáng lập Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam
Một sự kiện đáng chú ý nhất của hội họa Miền Nam Việt Nam trước năm 1975 là việc thành lập Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam tại Sài Gòn vào năm 1968. Một nhóm họa sĩ ưu tú tại Miền Nam lúc đó có người đã ra trường, có người còn theo học tại Trường Mỹ Thuật Gia Định đã tập hợp nhau lại thành lập một hội nghề nghiệp mang tên là Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam. Những khuôn mặt tài năng như: Nguyễn Trung, Rừng, Mai Chửng, Nguyên Khai, Vy Cao Uyên, Hồ Hữu Thủ, Đỗ Quang Em, Đinh Cường đều là thành viên đầu tiên của tổ chức này. Một trong những người đứng ra thành lập là họa sĩ Hồ Thanh Đức.
Phát xuất từ những thay da đổi thịt liên tục của hội họa thế giới, những họa sĩ trẻ lúc đó cảm thấy bị vây quanh bởi những ý niệm lỗi thời cũng như những tư duy xơ cứng của các người thầy trên bục giảng. Sự thôi thúc tìm một hướng đi mới trong hội họa đã làm ra đời Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam lúc đó và ngay lập tức nhiều tên tuổi đã nổi lên góp vào sự hình thành một nền văn nghệ sáng tạo mới. Song song với chiến tranh nhưng không phải tranh của họ lúc nào cũng minh họa hay lấy nguồn hứng khởi từ cuộc chiến. Những họa sĩ này đã đa dạng hóa khuôn mặt mỹ thuật Miền Nam bằng nhiều cách khiến cho nó có tiếng nói riêng, diện mạo riêng và nhất là phong cách riêng so với trước đó.
Nhớ lại việc này, Họa sĩ Hồ Thành Đức cho rằng nguyên nhân sâu xa đi đến sự hình thành của Hội là các họa sĩ muốn thay đổi, thay đổi những gì mà họ cho là xưa cũ là lỗi thời:
“Phải biết chê tranh trong viện bảo tàng và phải biết khen nó như thế nào, chớ không phải chúng ta cứ đinh ninh mấy ông đó là thầy ta thì ta không thể nào vượt được, vì hoàn cảnh lúc bấy giờ là như vậy.”
Xuất thân từ trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế
Ông cũng kể lại con đường nào đã dẫn ông vào thế giới hội họa:
“Tôi ra Huế học vào khóa thứ ba, tức vào năm 1959-1960 của Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế. Tôi là đứa trẻ mồ côi từ Quảng Nam ra Huế học chứ không phải là con nhà giàu Quảng Nam được ra Huế học, thành thử khi tôi vào Trường Mỹ Thuật Huế là đúng với lại ước mơ và năng khiếu của tôi, nhưng mà tôi thiếu rất nhiều phương tiện về sơn, về mực này khác. Và sự tưởng tượng của tôi trong tranh rất là phong phú, cho nên khi tôi vào Nam thì ngoài bao nhiêu tranh ảnh màu sắc ra tôi chợt nghĩ thấy phải làm tranh trong cảnh của nhà nghèo. Có kỳ tôi đi qua đường thấy những miếng giấy màu trong tờ báo này khác, tại sao tôi không ghép để trở thành bức tranh? Thành ra câu chuyện tôi làm tranh giấy dán (tranh “coula”, tiếng Pháp gọi là “coula”) là một sự cùng tắc biến mà thôi chớ không phải là trường phái. Nhưng mà trong việc làm của tôi với lại sự suy nghĩ của tôi có đáp ứng được lòng mơ ước của tôi và năm 1963 tôi dự bức tranh đầu tiên, tôi vẽ cảnh sau giáo đường thì tôi được giải thưởng toàn quốc huy chương đồng của Mùa Xuân. Và từ đó tôi lên từ trường phái của tôi, tức là trường phái tôi làm “coula”mà một mình tôi, tôi tiếp tục con đường đó. Nhờ một mình một chiếu như vậy cũng là điều làm cho tôi có tiếng tăm với anh em. Rồi đến hôm nay thì tôi đã làm được 327 bức tranh, và tôi làm được 104 bài thơ kèm theo, thì tất cả những cái đó là sự thật của tôi, là mỗi bức tranh của tôi là có một lý lịch của nó. Tôi vẽ tranh, bán ở chỗ nào, tôi để ở đâu, ai mua, tôi đều ghi lại hết.
Tranh của Hồ Thành Đức được người xem đồng cảm ở màu sắc là điều dễ nhận ra nhất. Hầu như ông chỉ sử dụng những gam màu sáng tươi trong những hy vọng cùng những con đường nhẹ nhàng dẫn người xem vào bên trong thế giới nội tâm của khung vải. Hồ Thành Đức thành công ở thể loại acrylic hơn là ở các chất liệu khác. Ông chạy theo sự quyến rũ xảy ra cấp thời ngay sau những nhát vẽ đầu tiên cho đến khi kết thúc. Sự nhạy cảm với màu sắc đã giúp ông phân biệt một cách tài tình giữa những khoảng tối cần nhấn mạnh để các góc sáng trở nên tinh tế hơn gây cảm giác mở ra những câu hỏi mà người xem có thể tự đặt cho chính mình.
Hồ Thành Đức cũng tỏ ra khá nhạy bén trong những đề tài mà ông khai thác. Từ mùa xuân của những sắc áo tươi trong da thịt, ông nhẹ nhàng tiến vào những thao thức thân phận ngàn năm của người nghệ sĩ và những dấu hỏi lớn không phai được ông phác thảo trên nền canvas qua hình ảnh của đá, của thiên nhiên, của ánh sáng, hoặc của khung xương cơ thể con người hay thần vật.
Rồi đến hôm nay thì tôi đã làm được 327 bức tranh, và tôi làm được 104 bài thơ kèm theo, thì tất cả những cái đó là sự thật của tôi, là mỗi bức tranh của tôi là có một lý lịch của nó. Tôi vẽ tranh, bán ở chỗ nào, tôi để ở đâu, ai mua, tôi đều ghi lại hết.
Hình ảnh của Phật, của Giê Su và những suy tưởng về đời sống tâm linh cũng chiếm một phần không nhỏ trong tranh Hồ Thành Đức. Ông nhìn các đấng chí tôn với đôi mắt sắc sảo của người bị hành xác trên nẻo đường tục lụy qua chính đời thực của mình. Thấu hiểu sự cô đơn cùng cực của nghèo nàn và tối tăm là chất xúc tác khiến ông thể hiện ánh mắt của Phật từ bi hơn và sự đau đớn trên năm vết thương của Chúa bén lạnh hơn những tranh tượng bình thường. Ông không khai thác hình ảnh cuộc khổ nạn với cách nhìn hời hợt nhưng bằng sự cảm nhận đặc biệt của người nghệ sĩ, ông kể lại đoạn đường thánh giá theo cách than vãn thống hối và đớn đau chung với giòng máu đỏ nay đã thẩm đen qua con tim và nét vẽ của một người ngoại đạo.
Như nhiều họa sĩ Việt Nam trong cùng thời đại với ông, niềm hứng khởi của Hồ Thành Đức cũng thường lập đi lập lại trên đối tượng người nữ mà ông và bạn bè ông như Đinh Cường, Nguyên Khai, Nguyễn Trung, hay Rừng cùng đồng cảm. Hồ Thành Đức nhìn người nữ dịu dàng và đôi khi dè dặt. Những đường viền của tóc hay của môi trên chân dung người nữ trong tranh ông thường được chăm chút cẩn thận với một dụng ý khá rõ là nhằm tăng thêm nữ tính trong từng vết cắt của màu sắc. Ít khi Hồ Thành Đức để cho người nữ của mình im lặng hay bị buộc phải im lặng. Ông đưa hơi thở của nét, của màu, của ánh sáng vào nhân vật khiến người nữ trong tranh ông chừng như muốn bước ra, tung tăng với gió ngàn hay bước ra chỉ trong một khoảnh khắc để đối thoại với người đang đối diện với mình.
Nét sống động trên khuôn mặt mà họa sĩ diễn tả không dính gì tới cách vẽ truyền thần mà nhiều người vẫn thường trầm trồ. Hồ Thành Đức đi theo con đường khác, ông dẫn người xem tranh của ông vén lá để nhìn hoa, lật đá để tìm sức sống bên dưới hay trầm tư để những minh triết nở rộ trong tư tưởng. Suy tưởng khi nhìn tranh của ông là yêu cầu đầu tiên mặc dù mới thoạt nhìn thì tranh Hồ Thành Đức rất đơn giản và hiển thị.
Họa sĩ Hồ Thành Đức đã đi qua một đoạn đường rất dài và ông cũng là chứng nhân của nhiều cuộc biến động từ chính trị, lịch sử đến thăng trầm của nền hội họa nước nhà. Ông đã có tranh trong nhiều bảo tàng viện nhằm góp tiếng nói hiếm hoi của mỹ thuật Việt Nam vào nền mỹ thuật thế giới. Tuy thế, niềm thao thức về một sức sống mới đẩy hội họa Việt Nam lên cùng nhịp điệu của thế giới vẫn luôn bên cạnh ông trong những ngày còn lại nơi xứ người.
Đôi văn nghệ hiếm có: “Bé Ký & Hồ Thành Đức” Mối tình hai nghệ sĩ… cầm cọ!
(Trần Yên Hòa)
-Tại Sài Gòn, một buổi chiều năm 1965, họa sĩ Hồ Thành Đức mở cuộc triển lãm đầu tiên. Buổi chiều, bên ngoài phòng tranh, nắng bắt đầu dịu dần, phòng triển lãm vắng khách. Hồ Thành Đức lơ đãng đi dạo quanh phòng, thì cánh cửa chợt mở, một người con gái bước vào. Nàng ăn mặc rất giản dị, nếu không nói là quê mùa, tóc kẹp buông thả dài sau lưng. Nàng đến xem từng bức tranh treo trên tường.
Mới nhìn người con gái, Đức thấy lạ, nhưng khi nàng dừng lại ngắm từng bức tranh, anh mới chợt nhớ ra, khuôn mặt nàng là một hình ảnh quen thuộc anh thường thấy trên các báo, kể cả những tờ báo ngoại quốc. Ô! anh nhớ ra rồi. Đó là họa sĩ "đường phố" Bé Ký. Bé Ký đã nổi tiếng qua các bài giới thiệu qua nét vẽ đặt biệt của cô
Đức khấp khởi vui trong lòng, nhưng anh cũng cố làm mặt tỉnh.
Đức đến gần cô gái, như người chủ phòng tranh đến giới thiệu tranh mình đến với khách thưởng ngoạn. Anh vừa định lên tiếng thì cô gái đã nói trước:
- Anh là họa sĩ Hồ Thành Đức? Phòng tranh có vẻ vắng quá há?
Đức nói như muốn thanh minh, về sự thành công của cuộc triển lãm này:
- Thưa cô! Không đâu cô, buổi sáng và trưa nay khách đến xem tranh rất đông. Tôi đã bán được một số tranh khá nhiều. Bây giờ là buổi chiều nên hơi vắng.
Anh cố làm ra vẻ bằng lòng với câu trả lời của mình. Nói xong anh nở một nụ cười thật tươi, nhưng cô gái vẫn im lặng không đáp lễ. Cái im lặng của cô gái ghi nhận một sự đứng đắn, nhưng không lạnh lùng. Cô nhìn quanh phòng tranh và tiếp tục chăm chú xem từng bức tranh.
Anh tỏ vẻ thân mật, muốn mời cô gái ký vào tập ghi chữ ký lưu niệm của khách, thì bỗng nhiên cô gái hỏi:
- Anh có biết tôi là ai không?
Dù biết đây là Bé Ký, nhưng Hồ Thành Đức vẫn cố dấu. Anh trả lời:
- Thưa cô! Thật lấy làm tiếc, xin lỗi cô là ai?
Cô gái sửa lại mái tóc, nhìn anh cười:
- Tôi là Bé Ký.
Đức suýt xoa, nói như một sự xin lỗi vì sự không quen biết này:
- A, thế ra cô là Bé Ký, họạ sĩ đường phố. Thế là chúng ta cùng một nghề, nghề cầm cọ.
Trả lời xong, Đức thấy lòng mình yên ả, nhẹ nhàng. Một tình cảm ùa vào tâm hồn anh, như một luồng gió mát len vào căn phòng trưng bày, chỉ có hai người.
Anh hỏi tiếp người con gái xưng mình là Bé Ký.
- Hôm nay cô không ra Catinat, Lê Lợi để vẽ tranh à?
Cô gái cười hiền hậu. Rồi cô nói như một tâm sự:
- Không anh ạ, mấy hôm nay tôi không ở Sài Gòn. Tôi ở Ban Mê Thuột mới về, về cốt để xem phòng tranh của anh đó.
Hồ Thành Đức reo vui trong bụng. Bé Ký đã là một họa sĩ nổi tiếng, có thể tên tuổi của nàng nổi trội hơn anh bây giờ. Dù anh đã học Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, rồi Cao Đẳng Mỹ Thuật Sài Gòn, nhưng đây là lần đầu tiên anh triển lãm, trong lúc đó, Bé Ký đã có cuộc triển lãm đầu tiên từ năm 1957 và sau đó đã có triển lãm nhiều lần nữa.
Từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, như có một sợi dây vô hình, như là định mệnh, đã gắn kết tình yêu của hai người lại với nhau, dù trước đó, Đức đã có bạn gái, nhưng anh cũng cho qua, để đến với Bé Ký, như một tình yêu đầu đời, với sự trong sáng, giản dị, chân thành của Bé Ký. Sau khi tìm hiểu nhau, cả hai biết cùng đồng cảnh ngộ, đều là trẻ mồ côi.
Và lễ cưới diễn ra. Họ nhà trai không có ai, họ nhà gái cũng vậy. Khách mời toàn là bạn bè từ các bạn văn nghệ, các họa sĩ thân quen, đến các bạn là nhà văn, nhà thơ, nhà báo, cùng đồng hương Quảng Nam Đà Nẵng...
Đám cưới thế mà vui, rôm rả tiếng cười nói, của đám bạn trẻ. Và lời chúc tụng hai người hãy sống với nhau đến đầu bạc răng long.
(viết dựa theo ý một bài của Luân Hoán)
Và đúng như vậy, từ 1965 đến nay 2021, đúng là 56 năm, một cuộc tình dài lâu, dù trải qua nhiều biến đổi của đất nước, có vượt biên, có tù tội... Nhưng cuối cùng gia đình Hồ Thành Đức - Bé Ký vẫn qua được bến bờ tự do, đã định cư tại Midway City, California, Hoa Kỳ, từ năm 1989 đến nay.
"Biết"
Tôi "biết" tên Bé Ký từ những ngày còn nhỏ, khi đọc trên tờ Thế Giới Tự Do ở thư viện quận lỵ nơi tôi ở. Tờ Thế Giới Tự Do in đẹp, giấy láng tốt. Tờ báo giới thiệu Bé Ký một cách trang trọng, dành 2, 3 trang gì đó. Với sự ăn mặc giản dị, Bé Ký đi trên đường phố Sài Gòn, vẽ tranh và bán cho khách qua đường. Tôi chỉ biết về Bé Ký như vậy, nhưng qua xem tranh của chị trên tờ Thế Giới Tự Do, tôi rất thích vì tất cả đề tài chị vẽ, đều gần gũi với quê hương Việt Nam, như Mẹ và con, Chọi gà, Mẹ chải tóc cho con, Giã biệt, Che dù, Đi chợ mua bông sen...
Với Hồ Thành Đức thì tôi cũng chỉ nghe tên anh trong những bản tin hội họa trên các báo. Nổi đình nổi đám nhất là lúc Hồ Thành Đức làm chủ tịch hội họa sĩ Trẻ (trước 1975)...
Ở Mỹ, khoảng những năm 2001, 2003, tôi phụ trách tờ Đặc San Quảng Nam Đà Nẵng, Hồ Thành Đức năm nào cũng sốt sắng đóng góp bài vở, anh không có cái kiêu hãnh của người đã nổi tiếng, là người họa sĩ đã thành danh.
Rồi những ngày sau, là ngồi cà phê. Cách đây khoảng hơn 15 năm, Hồ Thành Đức thường đến cà phê F. Anh đến một mình, đi xe buýt nhiều chặng để đến, khi về, có anh em nào rảnh, cùng đường, thì cho anh quá giang về. Còn không, anh đón xe buýt về.
Ngồi với Hồ Thành Đức, nghe anh nói chuyện, cũng là một niềm vui, vì anh nói rất sa đà…Nói về anh, về Bé Ký, hay những quen biết thơ văn với các tác giả khác. Anh nói thao thao bất tuyệt, có những giai thoại rất hay về các tác giả khác, như về Bùi Giáng, về Nguyễn Đức Sơn. Anh mê thơ Bùi Giáng nên anh thuộc nhiều thơ Bùi Giáng. Hồ Thành Đức có một trí nhớ rất tốt là thuộc lòng nhiều thơ của các tác giả mà anh thích.
Sau đó, Hồ Thành Đức có thực hiện một tuyển tập tranh, lấy tên là Ngựa Trắng Đi Khuya, anh bỏ công hàng năm trời để “thực hiện cho bạn bè văn nghệ” tập này. Mỗi nhà thơ, nhạc sĩ, anh lấy một số đoạn thơ, hay một lời nhạc anh thích, rồi ghép với tranh của mình, để thành tuyển tập.
Sau khi thực hiện xong, anh muốn in tập này trong nước, nhưng qua "gọng kìm kiểm duyệt" trong nước, sách không được cho in. Sau đó anh chọn lọc lại, và in ở hải ngoại.
Tôi được anh biếu một cuốn, trong sách được anh dành cho 1 trang, với bức họa của anh có tên là Đá Đam Mê với 2 đoạn thơ trong bài thơ Uyên Ương của tôi:
Em hương nhụy hồng hoa ta hãy hái
Chùm môi thơm từng cánh rã trên tay
Lòng hoang tưởng mùa thu em thức dậy
Bàn tay mềm cho tình ái mê say
Ta hát khúc uyên ương trên đồi cọ
Giữa mùa thu trùng điệp ánh sao rừng
Lòng đã mở tan hoang bài ca cũ
Khúc tình tang trùng khuất giữa mùa xuân
Lần đầu tiên tôi đến nhà Hồ Thành Đức để mượn anh một số tranh nhân ngày họp mặt đoàn tụ của các cựu học sinh liên trường Quảng Nam Đà Nẵng sắp tổ chức, tôi mới diện kiến họa sĩ Bé Ký. Dáng chị nhỏ con, gương mặt hiền lành. Thấy tôi đến chị ra chào hỏi vui vẻ. Giọng nói Bé Ký toát ra vẻ chơn chất của người đàn bà thực thà. Chị nói chuyện khoảng 5 phút là chị trở vào phòng, để tôi nói chuyện với chồng. Anh Đức đã dẫn tôi đi xem phòng tranh của anh và Bé Ký. Căn phòng khách chứa đầy tranh.
Sau đó, tôi đến nhà thăm và xem tranh Hồ Thành Đức & Bé Ký nhiều lần. Mỗi lần đến chị Bé Ký đều ra tiếp, vẫn với nụ cười hồn hậu, với khuôn mặt hiền lành, chị cũng chỉ hỏi thăm vài ba câu rồi rút vào trong phòng. Hình ảnh Bé Ký tôi chỉ nhận được có thế.
Khoảng 2, 3 năm gần đây, Hồ Thành Đức không đi uống cà phê nữa. Nghe nói vì tuổi già nên anh yếu sức, lại có bịnh Alzheimer nên không đón xe buýt được nữa. Về Bé Ký, nghe nói chị cũng yếu, và cũng bị Alzheimer.
Cho đến vào chiều Thứ Tư, 12 Tháng Năm, 2021 vừa qua, họa sĩ Bé Ký qua đời tại nhà, ở thành phố Midway City, hưởng thọ 83 tuổi.
Trong lời với phóng viên báo Người Việt, anh Hồ Thành Cung, con trai của anh chị, kể: "Mẹ mất vào khoảng 2 giờ đến 6 giờ chiều. Tôi về nhà thì thấy bà mất trong lúc ngủ và đang nắm tay ba."
Chỉ từng đó chữ, mà cảm động biết bao nhiêu, khi Bé Ký ngủ và "đi" luôn, trong lúc còn nắm tay chồng.
Xúc động thay với tình yêu gắn bó của cặp vợ chồng cầm cọ này!
Comments
Post a Comment