Tiệc Tất Niên Hội Biệt Động Quân Bắc California
BĐQ Trần Đình Huệ phát biều chào mừng
Niên Trưởng Lê Phú Đào phát biều cảm tưởng
Nghị Viên Dist.7 San Jose phát biều cảm tưởng
Biệt Động Quân hành khúc
Văn nghệ Hợp ca Ly Rượng Mừng
Nhà hàng trang trí đơn giản với không khí Tết, những chậu chúc
vàng, và hàng cờ Quốc Kỳ Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa và cờ Binh Chủng. Tấm biểu
ngữ lớn Chào Mừng Quan Khách treo giữa sân khấu. Trước cửa nhà hàng ngoài biểu
ngữ Chào Mừng còn có 2 chiếc xe Jepp quân đội có đủ các thiết bị quân sự, nhiều
người đã thích thú chụp hình. Hơn 5:00pm ,
quan khách đã đến, Ban Tiếp Tân bận rộn tiếp đón, tặng quà, và chụp hình kỷ niệm.
Tiếng chào mời, chúc Tết vang vang khắp khách sảnh trước phòng tiệc. Những bộ
quân phục đủ các binh chủng đã tăng thêm phần long trọng cho buổi tiệc. Nhiều bạn
đồng đội cũ đã gặp nhau tay bắt mặt mừng, thăm hỏi đồng đội, kể chuyện xưa, những
người vợ lính, con cháu thích thú lắng nghe. Có những cô gái là thân nhân hãnh
diện trong bộ quân phục BĐQ.
Lễ chào cờ khai mạc diễn ra lúc 6:30pm . Tất cả các quân nhân BĐQ làm hàng quân danh dự trước
khán đài. SQ Nghi Lễ, BĐQ Ngô Thuận Thời và BĐQ Lê Đình Hưng, điều khiển lễ chào
cờ. BĐQ Trần Song Nguyên, Hội trưởng, ngỏ lời chào mừng, và nghi thức khai mạc
diễn ra sau đó. Một phút mặc niệm tưởng nhớ anh linh tử sĩ, các chiến sĩ BĐQ đã
bỏ mình diễn ra trong tiếng kèn truy điệu trầm buồn sâu lắng; dù bất cừ nơi đâu,
bất cứ khi nào có dịp gặp nhau họ điều tưởng nhớ đến những đồng đội đã hy sinh.
Sau l ễChào Cờ, Trưởng Ban Tổ Chức BĐQ Trần Đình Huệ, chào mừng
quan khách, ngỏ lời chúc Tết và cảm ơn.
BĐQ Lê Phú Đào, vị niên trưởng cao niên, đã có lời chúc Tết.
Trong lời phát biểu của mình; sau khi nhắc đến những cố gắng trong 42 năm nơi xứ
người, từ hai bàn tay trắng xây dựng cuộc sống mới trên quê hương thứ 2, ông cũng
nhắc đến sự thành công của tuổi trẻ, trong đó có con cháu (Hậu Duệ) của các cựu
quân nhân và đồng hương…v.v. kết thúc với 4 câu thơ chúc Tết: “Đinh Dậu đón mừng
Xuân/ Ước nguyện tươi vui thật tuyệt trần/ Vinh hoa phú quý miên trường thọ/ Đắc
tài đắc lộc đắc nhân tâm.”
Nghị Viên Nguyễn Tâm Quận 7 (Dist.7) được mời lên phát biều.
Ông ngỏ lời chào mừng và chúc Tết, Ông còn bày tỏ sự nhớ ơn và nói lên lòng kính
phục các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đặc biệt là Binh Chủng Biệt Động
Quân.
Chương trình tiếp nối với phần dạ tiệc và dạ vũ. Mở đầu cho
phần văn nghệ, các chiến sĩ BĐQ hợp ca
Biệt Động Quân Hành Khúc, với những cánh tay mạnh mẽ đưa lên và tiếng hô
“Biệt Động Quân Sát!” hùng dũng. Tiếng hô vang dội làm sống lại một thời oanh
liệt của các chiến sĩ Cọp Ba Đầu Rằn làm khiếp đảm quân thù.
Tiếng nói cùng tiếng cười, vang vọng khắp các bàn tiệc. Máy ảnh
chớp sáng khắp nơi. Có lúc tiếng hát tiếng đàn trên sân khấu không át nổi tiếng
cười, không làm gián đoạn được những câu chuyện sôi nổi đang diễn ra tại các bàn
tiệc. Họ đang sống trong những giây phút đoàn tụ của tình chiến hữu. Tình lính
và “chất” trai trẻ của người lính đang sống dậy trong mỗi người? Đâu đó có lời
phát biểu với bạn bè “Không vui không về!”, “Lính mà em!”. Nhưng cuộc vui không
thể kéo dài. Đã đến lúc phải tạm nói lời từ giả. Bịn rịn, quyến luyến chia tay.
BTC cảm ơn, nói lời “Chúc Mừng Năm Mới”, và chương trình kết thúc lúc 10:00pm
Tưởng cũng nên nói thêm đôi nét về Hội Biệt Động Quân Bắc California .
Sau những năm đầu tỵ nạn vì cảnh nước mất nhà tan, bỡ ngỡ vì
cuộc sống nơi xứ lạ quê người, lo học hành, làm việc, để sớm hội nhập vào xã
hội mới. Thời gian lặng lẽ trôi qua, đến
một lúc nhu cầu tình cảm trở về. Tình
cảm của người lính VNCH lúc đó là gặp gỡ, trao đổi, thăm hỏi nhau, đồng thời ôn
lại những kỷ niệm xưa trong thời gian quân ngũ. Những cựu quân nhân Biệt Động
Quân miền Bắc California tâm niệm
Phương châm của binh chủng là "Một ngày BĐQ, một đời BĐQ" Những gắn bó thiêng liêng của những người
cùng khoác áo rằn ri, Mũ Nâu lại càng thắm thiết hơn lúc nào hết. Họ gặp nhau,
tìm nhau, nhóm bạn Mũ Nâu càng ngày càng tăng nhân số. Vài ba người, năm bảy người,
đến với nhau vào những cuối tuần. Rồi những ngày lễ, ngày kỷ niệm thành lập Binh
Chủng được họ nhớ đến và dùng đó làm mốc thời gian để quy tụ, để hội họp, gặp
mặt thăm hỏi nhau.
Để liên kết
với nhau một cách tích cực hơn, Chiến Hữu Đỗ Thanh Quang đưa ý kiến thành lập
Hội B.Đ.Q Bắc Cali. Anh em nhà Cọp miền Bắc California
đồng tình ủng hộ. Thế là nhân dịp anh
em gặp nhau kỷ niệm ngày thành lập binh chủng 1/7/1984 , họ cùng quyết định khai sinh Hội BĐQ/Bắc
Cali. Người đưa ý kiến sáng lập được anh
em bầu làm Hội Trưởng tiên khởi của Hội. Đầu thập niên 90, những đợt cựu tù
nhân chính trị, trong đó có không ít các cựu BĐQ, sang định cư tại vùng Bắc California ,
Hội BĐQ Bắc Cali đang trên đà phát triển, lại càng vững mạnh hơn nữa. Tình chiến
hữu càng thêm đậm đà. Những Chiến Hữu đã
đóng góp công sức trong chức vụ Hội Truởng từ ngày thành lập cho đến nay được
ghi nhận:
Chiến hữu Đỗ Thanh Quang, Chiến hữu Đặng Hữu Thăng, Chiến
hữu Nguyễn Hữu Thoại, Chiến hữu Nguyễn Chiêu Minh, Chiến hữu Võ Tự Bé, Chiến
hữu Trần Minh, Chiến hữu Trương Ngọc Hồng, Chiến hữu Đoàn Thi, Chiến hữu Lương
Văn Ngọ, Chiến Hữu Nguyễn Xuân Diến, Chiến Hữu Trần Song Nguyên (Đương Nhiệm)
Hội sinh hoạt với các
mục tiêu:
- Đoàn kết cựu quân nhân, tiếp tục đấu tranh chính trị chống
bạo quyền cộng sản.
- Tương trợ các Thương Phế Binh BĐQ hiện còn đang kẹt lại ở
quê nhà.
- Vun bồi thế hệ con cháu, để nối tiếp thế hệ cha anh đấu
tranh cho một nước VN tự do không Cộng Sản [Lê Bình]
Lịch Sử Binh
Chủng:
- Ngày 1/7/1960 ,
Binh chủng Biệt Ðộng Quân chính thức được thành lập. Các Sỹ Quan, Hạ Sỹ Quan và
Binh Sỹ ưu tú được đưa từ các Sư Ðoàn Bộ Binh, các Binh Chủng thiện chiến về
làm nòng cốt cho các Ðại Ðội BÐQ tân lập.
- Khởi đầu có 65 đại đội BĐQ được thành lập. Năm 1961, đã có
81 đại đội BĐQ hành quân biệt lập.
- Năm 1962, các Tiểu Đoàn BÐQ được thành lập
- Năm 1966, các Liên Đoàn 1, 2, 3, 4, 5 BÐQ được thành lập.
- Năm 1968, Liên Ðoàn 6 BĐQ được thành lập
- Năm 1970, Binh chủng BÐQ được chia thành các liên đoàn BÐQ
tiếp ứng, các liên đoàn 1, 2, 3, 4, 5, 6, và các tiểu đoàn BÐQ Biên Phòng. Tổng
cộng 51 tiểu đoàn BÐQ.
- Năm 1973, Liên Ðoàn 7 BĐQ được thành lập
- Năm 1973, một lần nữa, lại cải tổ thành các liên đoàn trừ
bị:
Vùng 1: các
Liên Ðoàn 11, 12, 14, 15.
Vùng 2: các
Liên Ðoàn 21, 22, 23, 24, 25.
Vùng 3: các
Liên Ðoàn 31, 32, 33.
và các Liên
Ðoàn Tổng Trừ Bị: 4, 6, 7, 8 (thành lập cuối năm 1974), LĐ 9 (thành lập tháng 3
năm 1975).
- Năm 1975, Binh chủng đang chuẩn bị thành lập 2 Sư Ðoàn BÐQ
101, và 106.
- Các vị Chỉ Huy Trưởng cuả Binh Chủng BĐQ từ ngày thành lập
đến năm 1975 như sau:
Thiếu Tá Phan trọng Chinh, Đại Tá Phan đình Thứ (Lam Sơn),
Đại Tá Tôn Thất Xứng, Đại Tá Phan xuân Nhuận, Đại Tá Trần văn Hai, Đại Tá Trần
công Liễu, Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai. (Cấp
bậc khi đang làm Chỉ Huy Trưởng)
Biệt Động Quân(Tiếng Anh: Vietnamese Rangers Corp, VNRC) là
một Binh chủng Đặc Biệt của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, gồm những đơn vị Bộ
binh tinh nhuệ, được huấn luyện để thực thi các nhiệm vụ tấn công và truy kích
cơ động với lực lượng đối phương, chủ yếu bằng trực thăng vận. Biệt Động Quâncũng
là lực lượng căn bản hình thành từ nhiều đơn vị tinh nhuệ trong Quân lực Việt
Nam Cộng hòa.
Trong khái niệm thuật ngữ quân sự Việt Nam Cộng Hòa, Biệt
Động Quântương đương với Lực lượng Ranger trong Lục quân Hoa Kỳ. Ngoài ra, một
số lực lượng chuyên biệt khác có đặc điểm gần giống như Biệt Động Quânnhưng có
nhiệm vụ hoạt động khác như Biệt kích (Commando), Lực lượng Đặc Biệt (Special
Force) Biệt Cách Dù (Airbone Ranger). Hầu hết các lực lượng này đều có nguồn
gốc từ Biệt Động Quânvà về sau hình thành những Binh chủng riêng biệt trong
Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Để tăng cường khả năng tác chiến của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa
trước chiến thuật du kích của Cộng sản Bắc Việt kể từ sau phong trào Đồng khởi,
ngày 16 tháng 2 năm 1960, Tổng thống Ngô Đình Diệm chỉ thị thành lập các Đại
đội Biệt Động Quân, tuyển chọn binh sĩ của các Sư đoàn Bộ binh và Quân khu,
Binh chủng Nhảy dù và Thủy quân Lục chiến, huấn luyện kỹ thuật hành quân độc
lập, tác chiến chống du kích. Một số sĩ quan người Việt thuộc Liên đoàn Quan
sát số I được chuyển sang làm thành phần nòng cốt của Biệt Động Quân. Chiến
thuật tác chiến ban đầu của các Đại đội Biệt Động Quânchủ yếu là trang bị vũ
khí gọn nhẹ với quần áo bà ba đen, cơ động truy kích và tiêu diệt các đơn vị du
kích Cộng sản hoạt động trên địa bàn.
Trung tâm Huấn luyện Biệt Động Quânđầu tiên là trường Biệt
động đội Đồng Đế, đặt tại Nha Trang, về sau đổi thành Trung tâm Huấn luyện Biệt
Động Quân Nha Trang, chuyên huấn luyện cho sĩ quan và hạ sĩ quan thuộc Quân
đoàn II. Cuối tháng 4 năm 1960, hai Trung tâm huấn luyện Biệt Động Quân mới
được thành lập, một tại Đà Nẵng để huấn luyện cho sĩ quan và hạ sĩ quan thuộc
Quân đoàn I, một tại Sông Mao huấn luyện cho sĩ quan, hạ sĩ quan thuộc Quân
đoàn III và Quân đoàn IV. Ngoài ra, còn có 2
Trung tâm Huấn luyện khác là Trung Hòa và Thất Sơn, chuyên huấn luyện tác chiến
cấp Đại đội. Khác với các toán Biệt Kích của Liên đoàn Quan sát số I do các cố
vấn CIA trực tiếp quản trị, điều hành và
huấn luyện, các toán Biệt Động Quân do các sĩ quan và hạ sĩ quan người Việt
huấn luyện với sự trợ giúp của các cố vấn quân sự của Phái bộ Cố vấn Quân sự Mỹ
(Military Assistance Advisory Group - MAAG).
Ngày 1 tháng 7 năm 1960, Lực lượng Biệt Động Quân được chính
thức thành lập, do Thiếu tá Lữ Đình Sơn làm Chỉ huy trưởng. Quân phục chính
thức của Lực lượng Biệt Động Quân cũng chuyển sang quân phục rằn ri đốm hoa với
mũ nâu. Mặc dù hình thành Bộ chỉ huy riêng, nhưng trên thực tế, các Đại đội Biệt
Động Quân tác chiến theo sự chỉ huy của các Tư lệnh Sư đoàn hoặc Tiểu khu
trưởng tại địa bàn hoạt động. Bộ Chỉ huy Trung ương chỉ có nhiệm vụ quản trị,
điều hành, bổ sung quân số, huấn luyện, trang bị, thanh tra, theo dõi, thống
kê, báo cáo các hoạt động của các đơn vị Biệt Động Quân trên toàn lãnh thổ Việt
Nam Cộng Hòa.
Mặc dù vậy, hoạt động của những người Cộng sản vẫn không
ngừng tăng lên. Ngày 15 tháng 2 năm 1961, các đơn vị vũ trang Cộng sản thành
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ,
thành lập các đơn vị quân sự chính quy. Trước quy mô chiến tranh mở rộng, ngày
1 tháng 8 năm 1961, các Trung tâm Huấn luyện Đà Nẵng, Nha Trang, Sông Mao được
hợp nhất thành Trung tâm Huấn luyện Biệt Động Quân Dục Mỹ. Các trung tâm Trung
Hòa và Thất Sơn cũng được sát nhập thành Trung tâm Huấn luyện Biệt Động Quân Trung
Lập để có thể huấn luyện quy mô cấp Tiểu đoàn. Đầu năm 1962, các Đại đội Biệt
Động Quân thuộc quyền các Tiểu khu được thu hồi để thành lập 3 Tiểu đoàn đặt
dưới quyền các Quân khu là Tiểu đoàn 10 (Quân khu 1), Tiểu đoàn 20 (Quân khu 2)
và Tiểu đoàn 30 (Biệt khu Thủ đô), sau đổi tên thành Tiểu đoàn 11, 21 và 31 để
tương ứng với thứ tự từng vùng chiến thuật.
Sau những rối ren chính trị, từ năm 1965, Chính quyền Việt
Nam Cộng Hòa đi vào sự ổn định. Đến cuối năm 1965, các đại đội Biệt Động Quân độc
lập còn lại cũng được bổ sung và tổ chức lại thành 17 Tiểu đoàn Biệt Động Quân.
Từ năm 1966, Lực lượng Biệt Động Quân tiếp tục được cải tổ để thành lập các
Liên đoàn Biệt Động Quân (gồm các Liên đoàn 1, 2, 3, 4, và 5), đặt trực thuộc
các Quân đoàn. Nhiệm vụ của Lực lượng Biệt Động Quân cũng thay đổi, trở thành
các đơn vị trừ bị, có khả năng cơ động nhanh, đối tượng tác chiến không còn là
các toán du kích nhỏ mà là các đơn vị chủ lực của Cộng Sản cấp Trung đoàn. Liên
đoàn 6 được thành lập vào năm 1968.
Tính đến giữa năm 1969, Lực lượng Biệt Động Quân được tổ
chức 6 Liên đoàn, trong đó có Liên đoàn 5 và 6 là Lực lượng Tổng trừ bị cho Bộ
Tổng tham mưu, dưới sự điều hành của Bộ chỉ huy Biệt Động QuânTrung ương. Các
Liên đoàn 1, 2, 3 và 4 là đơn vị Tổng trừ bị cho 4 Quân khu, với sự điều hành
của 4 Bộ chỉ huy Biệt Động Quân Quân khu và dưới quyền điều động trực tiếp của
các Tư lệnh Quân đoàn I, II, III và IV. Năm
1973, thành lập Liên đoàn 7 làm đơn vị Tổng trừ bị cho Bộ Tổng tham mưu.
Từ cuối năm 1961, CIA đã
xây dựng một kế hoạch mang tên "Chương trình Phòng vệ xóm làng"
(Village Defense Program - VDP) nhằm tách rời các buôn làng dân tộc thiểu số
khỏi ảnh hưởng tuyên truyền của những người Cộng sản; đồng thời xây dựng một
lực lượng vũ trang gồm người dân tộc thiểu số để làm tăng thêm khả năng chống
xâm nhập của những người Cộng sản vào những khu vực hẻo lánh, tăng khả năng kiểm
soát chiến tranh ở vùng Cao nguyên.
Chương trình này dẫn đến việc hình thành các trại Biệt kích
Dân sự ở Cao nguyên, chuyên thực hiện các nhiệm vụ phá hoại, ngăn chặn đường
xâm nhập của các đơn vị Cộng Sản từ Bắc vào Nam. Tháng 2 năm 1962, các đơn vị Biệt
kích Dân sự này chính thức hợp thành Lực lượng Dân sự Chiến đấu (Civilian
Irregular Defense Group - CIDG), do CIA trực
tiếp thực hiện, nằm ngoài sự quản lý của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Ngày 23
tháng 7 năm 1962, theo Quyết định 57 An ninh Quốc gia của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ,
CIA sẽ bàn giao tất cả những hoạt động bán
quân sự, kể cả Lực lượng Dân sự Chiến đấu, cho Bộ Tư lệnh Viện trợ Quân sự Mỹ
tại Việt Nam.
Sự hình thành một Lực lượng Biệt kích Dân sự vũ trang không
chịu sự kiểm soát của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cũng dẫn đến những hệ lụy
không nhỏ. Do mâu thuẫn sắc tộc, sự thiếu quan tâm của chính quyền Việt Nam
Cộng Hòa đã dẫn đến việc nhiều Biệt kích quân người dân tộc thiểu số tại Việt
Nam đang chiến đấu cho Lực lượng Đặc biệt Hoa Kỳ và Lực lượng Dân sự chiến đấu
đã tham gia Phong trào ly khai BAJARAKA. Dưới sự dàn xếp của người Mỹ, những
mâu thuẫn tạm thời chưa bùng nổ lớn. Các Biệt kích quân người dân tộc thiểu số
tại Việt Nam vẫn chiến đấu dưới quyền chỉ huy của người Mỹ cho đến năm 1970, khi
các đơn vị thuộc Lực lượng Dân sự Chiến đấu được người Mỹ bàn giao một phần cho
Quân lực Việt Nam Cộng Hòa và được cải tổ thành Lực lượng Biệt Động Quân Biên
phòng.
Cùng với sự tiếp nhận và tái tổ chức các trại Biệt kích
thuộc Lực lượng Dân sự Chiến đấu thành các Tiểu đoàn Biệt Động Quân Biên phòng,
cũng như các Liên đoàn thuộc Lực lượng Đặc Biệt vừa giải thể thành Liên đoàn 7 Biệt
Động Quân. Tính đến cuối năm 1971, lực lượng Biệt Động Quân có 21 Tiểu đoàn Biệt
Động Quân chính quy và 37 Tiểu đoàn Biệt Động Quân Biên phòng. Mỗi Quân khu đều
tổ chức Bộ chỉ huy Biệt Động Quân của Quân đoàn, chỉ huy 1 Liên đoàn Biệt Động
Quân chính quy và một số Tiểu đoàn Biệt Động Quân Biên phòng. Riêng các Liên
đoàn 5, 6, 7 do Bộ chỉ huy Biệt Động QuânTrung ương trực tiếp chỉ huy.
Trước tình hình chiến tranh khốc liệt, và quân Mỹ rút khỏi
Việt Nam năm 1973, Đại tướng Cao Văn Viên đưa ra kế hoạch tái tổ chức lại 58
Tiểu đoàn Biệt Động Quân (kể cả Biệt Động Quân Biên phòng) thành 45 Tiểu đoàn,
bỏ các đồn trại Biên phòng (trừ một số các đồn trại ở những nơi xung yếu) để
hình thành Lực lượng Trừ bị ở cấp Quân đoàn và Tổng trừ bị. Theo đó, 45 Tiểu
đoàn Biệt Động Quân sẽ tổ chức thành 15 Liên đoàn, trong đó có 2 Liên đoàn Tổng
trừ bị (sau tăng thêm Liên đoàn 4 rút từ Quân đoàn IV về). Các Liên đoàn này
được bố trí như sau:
Quân khu 1: Các Liên đoàn: 11, 12 (Liên đoàn 1 cũ), 14 và 15
Quân khu 2: Các Liên đoàn: 21, 22, 23 (Liên đoàn 2 cũ), 24,
và 25
Quân khu 3: Các Liên đoàn: 31 (Liên đoàn 3 cũ), 32 (Liên
đoàn 5 cũ), và 33
Các Liên đoàn 4, 6 và 7 thuộc Lực lượng Tổng trừ bị cho Bộ
Tổng tham mưu.
Lực lượng Biệt Động
Quânvào những năm cuối của cuộc Chiến tranh Việt Nam liên tục được tăng cường,
nhằm tổ chức một lực lượng trừ bị mạnh để thay thế cho Sư đoàn Dù và Sư đoàn
Thủy quân lục chiến đang bị mắc kẹt với chiến trường Quân khu I. Cuối năm 1974,
Liên đoàn 8 được thành lập, tháng 3 năm 1975, Liên đoàn 9 được thành lập. Một
dự định tổ chức các đơn vị Biệt Động Quân thành cấp Sư đoàn để làm Lực lượng
Trừ bị Chiến lược đã được hình thành. Năm 1975, Binh chủng đang chuẩn bị thành
lập 2 Sư Ðoàn BÐQ 101, và 106.
Comments
Post a Comment